Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Sia”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Gumruch (thảo luận | đóng góp)
→‎2015–2017: This Is Acting: file deleted on Commons
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 43:
'''Sia Kate Isobelle Furler''' ({{IPAc-en|icon|ˈ|s|iː|ə}}; sinh [[18 tháng 12]] năm [[1975]]), hay thường được biết đến với cái tên ngắn gọn là '''Sia''', là một ca sĩ kiêm sáng tác nhạc,<ref>{{Cite news |url=http://uk.reuters.com/article/us-music-charts-sia-idUKKBN0FL2SM20140716 |title=Singer-songwriter Sia snags first No. 1 on U.S. Billboard chart |date=16 July 2014 |work=Reuters |access-date=26 May 2017}}</ref> nhà sản xuất thu âm và đạo diễn video âm nhạc người Úc. Cô bắt đầu sự nghiệp là một ca sĩ trong ban nhạc [[Jazz|acid jazz]] Crisp ở khu vực Adelaide vào giữa những năm 90. Vào năm 1997, khi ban nhạc Crisp giải tán, cô ra mắt album phòng thu đầu tay của cô, có tựa đề ''OnlySee'' ở Úc. Sau đó, cô chuyển sang sinh sống ở London, Anh và cung cấp một giọng hát chính cho bộ đôi Zero 7.
 
Vào năm 2000, cô ký hợp đồng với phòng thu âm Dance Pool của hãng [[Sony Music]] và phát hành album phòng thu thứ hai của mình, ''Healing Is Difficult'', vào năm sau đó. Không hài lòng với việc quảng bá đĩa thu âm, cô ký hợp đồng với hãng Go! Beat và phát hành album phòng thu thứ ba, ''Colour the Small One'', vào năm 2004. Vì dự án trên đã nỗ lực kết nối được với đối tượng chủ đạo, nên Sia đã di chuyển sangđến New York vào năm 2005 và bắt đầu chuyến lưu diễn của mình khắp nước Mỹ. Cô phát hành album phòng thu thứ tư và thứ năm của mình, ''Some People Have Real Problems'' và ''We Are Born'', vào những năm 2008 và 2010. Sau đó cô quyết định "nghỉ giải lao", tập trung vào việc sáng tác nhạc cho các nghệ sĩ khác. Danh mục này của cô bao gồm những thành quả của sự hợp tác hết sức thành công như "[[Titanium (bài hát)|Titanium]]" (với [[David Guetta]]), "[[Diamonds (bài hát của Rihanna)|Diamonds]]" (với [[Rihanna]]) và "Wild Ones" (với [[Flo Rida]]).
 
Vào năm 2014, Sia ra mắt album phòng thu thứ sáu của mình, ''1000 Forms of Fear,'' đứng ở vị trí thứ nhất trong bảng xếp hạng [[Billboard 200|''Billboard'' 200]] và cho ra đời đĩa đơn đột phá bán chạy nhất, "[[Chandelier (bài hát)|Chandelier]]", và một bộ ba video âm nhạc với sự tham gia của vũ công trẻ Maddie Ziegler. Vào năm 2016, album phòng thu thứ bảy của cô được phát hành, mang tên ''This Is Acting'', bao gồm đĩa đơn đứng đầu [[Billboard Hot 100|''Billboard'' Hot 100]] đầu tiên của cô, "Cheap Thrills". Cùng năm đó, Sia khởi động chuyến lưu diễn Nostalgic for the Present Tour của cô, kết hợp nhiều yếu tố nghệ thuật biểu diễn. Sia đã nhận được một loạt các giải thưởng, bao gồm Giải thưởng Âm nhạc ARIA và một [[Giải Video âm nhạc của MTV]].<ref name=ARIA2014>{{cite web|url= http://www.fasterlouder.com.au/news/40788/Chet-Faker-and-Violent-Soho-lead-20sheeran14-ARIA-nominations| title=Chet Faker and Violent Soholead 2014 ARIA nominations|publisher=fasterlouder|accessdate=5 November 2014}}</ref>
Dòng 52:
Sia Kate Isobelle Furler được sinh ra vào ngày 18 tháng 12 năm 1975 tại [[Adelaide]], Nam Úc. Cha cô, Phil Colson, là một nhạc công, và mẹ cô, Loene Furler là một giảng viên nghệ thuật.<ref name="Harry"/> Sia còn là cháu gái của nam diễn viên kiêm ca sĩ Kevin Colson.<ref>{{cite web|url=http://www.smh.com.au/entertainment/theatre/kevin-colson-confesses-all-of-his-career-in-starry-firmament-20140926-10meub.html|title=Kevin Colson confesses all of his career in starry firmament|work=[[The Sydney Morning Herald]]|last=Craven|first=Peter|date=26 September 2014|accessdate=16 February 2015}}</ref> Sia nói rằng khi còn nhỏ, cô hay bắt chước phong cách biểu diễn của [[Aretha Franklin]], [[Stevie Wonder]] và Sting, những người được cô xem là những ảnh hưởng đầu tiên trong đời.<ref name="NPR">{{cite interview|url=http://www.wbur.org/npr/19075503/sia-learns-to-sound-like-herself|title=Sia Learns to Sound Like Herself| archiveurl=https://web.archive.org/web/20120320052105/http://www.wbur.org/npr/19075503/sia-learns-to-sound-like-herself|first=Alex|last=Cohen|authorlink=Alex Cohen|publisher=[[NPR Music]]|date=15 February 2008|archivedate=20 March 2012}}</ref> Cô theo học tại Trường Trung học Adelaide.<ref name="Harry">{{cite journal|url=http://www.mjmharry.com/docs/Sia-Furler.pdf| archiveurl=https://web.archive.org/web/20101105010101/http://www.mjmharry.com/docs/Sia-Furler.pdf|title=Sia Sensation|first=Michael|last=Harry|journal=[[The Advertiser (Adelaide)|The Adelaide Advertiser]]|pages=24–26|format=PDF|archivedate=5 November 2010}}</ref> Giữa những năm 1990, Sia bắt đầu sự nghiệp của mình với tư cách là một ca sĩ trong ban nhạc acid jazz Crisp.<ref name="Harry"/> Sia đã hợp tác với ban nhạc và đóng góp cho hai [[EP|đĩa mở rộng]] của họ: ''Word and the Deal'' (1996) và ''Delirium'' (1997).<ref>''Word and the Deal'' and ''Delirium'':
*{{cite web |url=http://trove.nla.gov.au/work/15875159?selectedversion=NBD12798813 |title=Word and the deal / Crisp. [sound recording] |publisher=[[National Library of Australia]] |archiveurl=https://web.archive.org/web/20150114223832/http://trove.nla.gov.au/work/15875159?selectedversion=NBD12798813 |archivedate=14 January 2015 |deadurl=yes}}
*{{cite web|archiveurl=https://web.archive.org/web/20150115020959/http://trove.nla.gov.au/work/24518036?q&versionId=29594043 |url=http://trove.nla.gov.au/work/24518036?q&versionId=29594043 |title=Delerium / Crisp. [sound recording] |publisher=National Library of Australia |archivedate=15 January 2015 |deadurl=yes}}</ref> Năm 1997, ban nhạc Crisp tan rã,<ref name="SMHSia">{{cite web|url=http://www.smh.com.au/entertainment/music/sia-furler-fame-does-not-become-her-20100617-yjdr.html|title=Sia Furler: Fame does not become her|work=[[The Sydney Morning Herald]]|first=Andrew|date=18 June 2010|last=Murfett|accessdate=16 February 2015}}</ref> Sia phát hành album đầu tay của cô mang tên ''OnlySee'' với hãng Flavoured Records tại Úc, vào ngày 23 tháng 12.<ref name="nloa">{{cite web|url=http://trove.nla.gov.au/work/7556295?selectedversion=NBD13682423|archiveurl=https://web.archive.org/web/20131225133718/http://trove.nla.gov.au/work/7556295?selectedversion=NBD13682423| title=Onlysee / Sia Furler. [sound recording]|publisher=National Library of Australia|archivedate=25 December 2013}}</ref> Album đã bán được hơn 1.200 bản.<ref>{{cite web|author1=Leon |title=Sia's first album onlysee |url=http://boyprincess.com/why-it-bothers-people-that-sia-hides-her-face/d13b98750d6a-original/ |website=Boy Princess |accessdate=28 August 2015 |date=1 March 2015 |deadurl=yes |archiveurl=https://web.archive.org/web/20160106063531/http://boyprincess.com/why-it-bothers-people-that-sia-hides-her-face/d13b98750d6a-original/ |archivedate=6 January 2016 }}</ref><ref>{{cite web| title=Sia| url=http://www.discogs.com/artist/21991-Sia|website=Discogs|accessdate=28 August 2015}}</ref> Không giống với những album sau này, ''OnlySee'' được bày bán trên thị trường thương mại dưới cái tên đầy đủ của cô, "Sia Furler". Album được sản xuất bởi Jesse Flavell.<ref>[https://trove.nla.gov.au/work/7556295?selectedversion=NBD13682423 "Onlysee (sound recording) / Sia Furler"], Flavoured Records, 1997, Trove.nla.gov.au, accessed 8 January 2018</ref> Bài hát "Soon" được Sia thu âm lại bởi Sia dưới cái tên mới là "Sober and Unkissed" và được góp mặt vào album năm 2001 của cô, ''Healing Is Difficult''.{{cn|date = tháng 1 năm 2018}}
 
=== 1997–2006: Zero 7, ''Healing Is Difficult'' và ''Colour the Small One'' ===
[[Tập tinFile:Sia Furler in concert (cropped).jpg|nhỏthumb|left|237x237pxupright|Sia biểu diễn trong một buổi hòa nhạc vào năm 2006]]
Sau khi ban nhạc Crisp tan rã vào năm 1997, Sia di chuyển sangđến London, nơi mà cô sẽ biểu diễn với tư cách là một giọng ca nền cho ban nhạc Anh Jamiroquai.<ref name=AllMusic>{{cite web|url=http://www.allmusic.com/artist/sia-mn0000753742/biography |title=Sia Biography |publisher=[[AllMusic]] |first=Andrew |last=Leahey |archiveurl=https://www.webcitation.org/6WL5RCnrD?url=http://www.allmusic.com/artist/sia-mn0000753742/biography |archivedate=14 February 2015 |deadurl=yes |df=dmy }}</ref> Cô đồng thời cũng cung cấp giọng hát chính cho ban nhạc downtempo người Anh Zero 7 trong ba album phòng thu đầu tiên của họ và lưu diễn cùng ban nhạc.<ref name="Verrico"/> Trong album vào năm 2001 của Zero 7, ''Simple Things'', Sia đóng góp giọng hát cho hai bài hát: "Destiny" và "Distractions."<ref name=allmusicsimple>{{cite web| title=Simple Things – Zero 7|url=http://www.allmusic.com/album/simple-things-mw0000017246|publisher=AllMusic|accessdate=19 March 2015}}</ref> Đĩa đơn "Destiny" đứng ở vị trí thứ 30 trong bảng xếp hạng [[UK Singles Chart]].<ref name="SiaUK">{{cite web|url=http://officialcharts.com|title=Sia: Artist|publisher=[[Official Charts Company]]| accessdate=16 February 2015}}</ref> Vào năm 2004, cô cũngtiếp tục đóng góp cho Zero 7 qua các đĩa đơn "Somersault" và "Speed Dial No. 2" (từ album ''When It Falls'').<ref name=allmusicwhen>{{cite web|last1=Bush|first1=John|title=When It Falls – Zero 7|url=http://www.allmusic.com/album/when-it-falls-mw0000328826|publisher=AllMusic|accessdate=19 March 2015}}</ref> Vào năm 2006, Sia tiếp tục hợp tác với Zero 7 qua album thứ ba của ban nhạc, ''The Garden,'' và vì vậy nên cô được mọi người đánh giá là ca sĩ hát chính "không chính thức" của Zero 7.<ref name=allmusicgarden>{{cite web| last1=Brown|first1=Marisa|title=The Garden – Zero 7|url=http://www.allmusic.com/album/the-garden-mw0000542394|publisher=AllMusic|accessdate=19 March 2015}}</ref><ref name="BB09">{{cite journal |last=Mason |first=Kerri |url=https://books.google.com/books?id=EX4yD1pJCxUC&pg=PA56 |title=Albums: Zero 7 – Yeah Ghost |page=56 |journal=Billboard |date=3 October 2009 |volume=121 |number=39}}</ref>
 
Vào năm 2000, Sia ký hợp đồng thu âm với phòng thu âm Dance Pool của hãng [[Sony Music]] và ra mắt đĩa đơn đầu tiên của cô, "Taken for Granted", giành lấy vị trí thứ 10 trên UK Singles Chart.<ref name=AllMusic/> Vào năm 2001, cô ra mắt album đơn ca thứ hai của mình, ''Healing Is Difficult'', kết hợp giữa hai thể loại nhạc retro [[jazz]] và nhạc [[soul]], nội dung lời ca của nó cho biết rằngchuyện Sia đang phải đối mặt với cái chết của mối tình đầu của cô về mặt lời ca.<ref name="SMHSia"/><ref>{{cite web|url=http://www.allmusic.com/album/healing-is-difficult-mw0000464188|title=Healing Is Difficult – Sia|publisher=AllMusic|first=Jon|last=O'Brien|accessdate=16 February 2015}}</ref> Không hài lòng với việc quảng bá album, Sia sa thải quản lý của cô, rời khỏi Sony Music và ký hợp đồng với Go! Beat, một chi nhánh nhỏ của [[Universal Music Group]] (UMG).<ref name="Verrico"/> Tại Lễ trao giải APRA vào năm 2002, Sia giành được giải Người viết bài hát Đột phá cùng với bộ đôi ngôi sao nhạc pop ở [[Brisbane]] Aneiki, Jennifer Waite và Grant Wallis.<ref name="APRAWin2002">{{cite web | url = http://www.apra-amcos.com.au/APRAAwards/MusicAwards/History/2002Winners.aspx |archiveurl=https://web.archive.org/web/20110308004321/http://www.apra-amcos.com.au/APRAAwards/MusicAwards/History/2002Winners.aspx| title = 2002 Winners – APRA Music Awards | publisher = [[Australasian Performing Right Association]] | archivedate=8 March 2011 }}</ref>
[[Tập tin:Sia Furler and Zero 7 in concert.jpg|nhỏ|270x270pxphải|240px|Sia và Zero 7 biểu diễn vào năm 2006|trái]]
Vào năm 2004., Sia phát hành album phòng thu thứ ba của cô, ''Colour the Small One''.<ref name="Ott">{{cite web|url=http://pitchfork.com/reviews/albums/7735-colour-the-small-one/ |title=Sia – Colour the Small One |last1=Ott |first1=Chris |publisher=[[Pitchfork (website)|''Pitchfork'']] |date=2 March 2004 |accessdate=9 July 2011 |deadurl=yes |archiveurl=https://web.archive.org/web/20150816072120/http://pitchfork.com/reviews/albums/7735-colour-the-small-one/ |archivedate=16 August 2015 |df= }}</ref> Cô sử dụng một hỗn hợp gồm các thể loại nhạc [[acoustic]] và [[nhạc điện tử|điện tử]] làm chất liệu nhạc cho album này.<ref name="Ott"/><ref>{{cite web|url=https://www.theguardian.com/music/2004/jan/02/popandrock.shopping|title=CD: Sia, Colour the Small One|work=[[The Guardian]]|first=Caroline|last=Sullivan|date=2 January 2004|accessdate=16 February 2015}}</ref> Album bao gồm bốn đĩa đơn: "Don't Bring Me Down", "Breathe Me", "Where I Belong" và "Numb". "Breathe Me" giành lấy vị trí thứ 71 tại Anh Quốc,<ref name="SiaUK"/> thứ 19 tại Đan Mạch và thứ 81 tại Pháp.<ref>{{cite web|url=http://www.danishcharts.com/showitem.asp?interpret=Sia&titel=Breathe+Me&cat=s|title=Breathe Me – Sia|publisher=[[Tracklisten]]|language=Danish|accessdate=16 February 2015}}</ref> "Where I Belong" từng dự kiến sẽ được đưa vào làm [[nhạc phim]] của bộ phim [[Người Nhện 2 (phim 2004)|''Người Nhện 2'']]; tuy nhiên, do một mâu thuẫn xung đột của hãng thu âm, nó đã bị thu hồi trong những phút cuối cùng.<ref>{{cite web|archiveurl=https://web.archive.org/web/20100629161406/http://www.siamusic.net/discography/singles/where-i-belong |url=http://www.siamusic.net/discography/singles/where-i-belong |title=Where I Belong {{!}} Single |publisher=Sia Music |archivedate=29 June 2010 |deadurl=yes |df=dmy }}</ref>
 
Không mãn nguyện với chuyện ''Colour the Small One'' đang được bày bán trên thị trường với chất lượng kém và vẫn đang vật lộn để kết nối được với một đối tượng chủ đạo, Sia di chuyển sang Thành phố New York vào năm 2005.<ref name="SMHSia"/> Trong khoảng thời gian đó, "Breathe Me" được chọn sẽ xuất hiện trong cảnh cuối cùng của series phim truyền hình của [[HBO]] ''Six Feet Under'', góp phần làm cho danh tiếng của Sia tăng cao thêm tại Mỹ. Do đó, quản lý của Sia, David Enthoven, đã sắp xếp một chuyến lưu diễn vòng quanh đất nước để duy trì được sự nghiệp đang lớn dần của cô.<ref>{{cite web| url=https://www.nytimes.com/2014/04/20/magazine/sia-furler-the-socially-phobic-pop-star.html?_r=1|title=Sia Furler, the Socially Phobic Pop Star|work=[[The New York Times]]|date=20 April 2014|first=Steve|last=Knopper|accessdate=16 February 2015}}</ref>
 
=== 2007'''<big>–</big>'''20102007–2010: ''Some People Have Real Problems'' và ''We Are Born'' ===
[[Tập tin:Sia performing photograph by Kris Krug.jpg|nhỏ|240x240pxphải|Sia biểu diễn tại Liên hoan Âm nhạc South by Southwest vào, năm 2008]]
Vào năm 2007, Sia racho mắtphát hành một album trực tiếp, có tựa đề ''Lady Croissant'', bao gồm tám bài hát biểu diễn trực tiếp từ buổi biểu diễn vào tháng 4 năm 2006 tại Bowery Ballroom, New York và một bản thu âm phòng thu mới—"Pictures". Một năm sau, cô rời khỏi Zero 7 bằng những lời lẽ thân thiện, được thay thế bởi Eska Mtungwazi làm ca sĩ nữ hát chính cho ban nhạc. Sia phát hành đĩa đơn phòng thu thứ tư của cô, ''Some People Have Real Problems'' vào ngày 8 tháng 1 năm 2008. Album giành được vị trí thứ 41 tại Úc và được [[Danh sách chứng nhận doanh số đĩa thu âm|chứng nhận Vàng]] bởi [[Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc]]. Nó được xếp hạng thứ 26 trên [[Billboard 200|''Billboard'' 200]] của Mỹ, trở thành album đầu tiên của Sia được nằm trong bảng xếp hạng tại Mỹ.
 
''Some People Have Real Problems'' bao gồm bốn đĩa đơn. Đĩa đơn đầu tiên, "Day Too Soon", được phát hành vào tháng 11 năm 2007 và đứng ở vị trí thứ 24 trong bảng xếp hạng [[Dance Club Songs|Hot Dance Club Songs]]. Đĩa đơn thứ hai, "The Girl You Lost to Cocaine", được ra mắt vào tháng 3 năm 2008. Đĩa đơn đã giành lấy vị trí thứ 11 tại Hà Lan và thứ 12 tại Tây Ban Nha; và vươn lên vị trí thứ 8 trong Hot Dance Club Songs. Đĩa đơn thứ ba của album, "Soon We'll Be Found", được phát hành vào tháng 10 năm 2008. Bản remix Bart Hendrix Deep Dope của "Buttons" được phát hành như một đĩa đơn trong ''Some People Have Real Problems'' vào tháng 2 năm 2009.
 
Vào tháng 5 năm 2009, Sia phát hành video ''TV Is My Parent'' dưới dạng [[DVD]], bao gồm một buổi hòa nhạc trực tiếp tại Hilo Ballroon ở New York, bốn video âm nhạc và cảnh hậu trường. Tại Lễ trao giải Âm nhạc ARIA năm 2009, Sia đoạt giải DVD Âm nhạc Xuất sắc nhất với ''TV Is My Parent''. Cô đồng thời cũng nhận được một đề cử cho giải Album Nghệ sĩ Đột phá Xuất sắc nhất với ''Some People Have Real Problems''.
 
[[Tập tin:Sia concert 2010 - We Meaning You Tour.jpg|trái|nhỏ|267x267px|Sia biểu diễn trong chuyến lưu diễn We Meaning You Tour của mình, vào năm 2010]]
Vào năm 2009, ca sĩ người Mỹ [[Christina Aguilera]] đã trao đổi với Sia về việc viết nhạc [[ballad]] cho album phòng thu thứ sáu sắp tới của Aguilera. Sản phẩm cuối cùng, [[Bionic (album)|''Bionic'']], bao gồm ba bài hát được đồng viết ra bởi Sia. Sau đó vào năm 2010, Sia cũng đồng viết ra "Bound to You", nhạc phim của bộ phim Mỹ [[Burlesque (phim)|''Burlesque'']], với sự tham gia của Aguilera và ca sĩ người Mỹ [[Cher]]. Bài hát được đề cử cho giải [[Giải Quả cầu vàng cho ca khúc trong phim hay nhất|Ca khúc trong phim Hay nhất]] tại [[Giải Quả cầu vàng]] lần thứ 68. Vào tháng 5 năm 2011, Sia xuất hiện trong [[The Voice (Hoa Kỳ mùa 1)|mùa giải đầu tiên]] của chương trình [[The Voice (chương trình truyền hình Hoa Kỳ)|The Voice]] Mỹ, với tư cách là một cố vấn cho Aguilera, người đã từng là một huấn luyện viên và là một giám khảo.
 
[[Tập tin:Sia concert 2010 - We Meaning You Tour.jpg|trái|nhỏ|267x267pxupright|Sia biểu diễn trong chuyến lưu diễn We Meaning You Tour của mình, vào năm 2010]]
Vào tháng 6 năm 2010, Sia ra mắt album phòng thu thứ năm của cô, ''We Are Born''. Nó đứng ở vị trí thứ hai trong BXH [[ARIA Charts]] và được chứng nhận Vàng bởi [[Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc|ARIA]]. Sự ra mắt của album được đi trước bởi ba đĩa đơn: "You've Changed", ra mắt vào tháng 12 năm 2009 và xếp hạng 31 tại Úc. Đĩa đơn tiếp theo, "Clap Your Hands", ra mắt vào tháng 6 năm 2010 và trở thành đĩa đơn được xếp hạng cao nhất của album, giành lấy vị trí 17 tại Úc, thứ 10 tại Hà Lan và thứ 27 tại Thụy Sĩ. Còn "Bring Night", nó được phát hành như đĩa đơn cuối cùng của dự án vào tháng 9 năm 2010, xếp hạng 99 tại Úc. Nhà sản xuất Greg Kurstin hợp tác với Sia cùng làm ra album này. Tại Lễ trao giải Âm nhạc ARIA năm 2010, ''We Are Born'' đã mang về cho Sia hai giải thưởng: Đĩa đơn Độc lập Được phát hành Hay nhất và Đĩa đơn Pop Được phát hành Hay nhất. Trong khi đó, tại Lễ trao giải Âm nhạc ARIA năm 2011, Sia nhận một đề cử cho giải thưởng Bài hát của năm với "Clap Your Hands". Để quảng bá ''We Are Born'', Sia bắt tay vào We Meaning You Tour, lưu diễn khắp Bắc Mỹ và châu Âu vào tháng 4–5 năm 2010. Buổi biểu diễn đầu tiên của chuyến lưu diễn tại Commadore Ballroom ở Vancouver, bị hủy sau khi ca sĩ trình bày được năm bài hát, sau đó bị lả đi vì nắng nóng, cần rút lui. Cô tiếp tục với We Are Born Tour, lưu diễn tại Úc vào tháng 2 năm 2011 và Bắc Mỹ vào tháng 7–8 năm 2011. Vào tháng 3 năm 2012, Sia phát hành album ''Best Of...'' tại Úc, bao gồm những bài hit thành công nhất của cô.
 
=== 2010–2013: Sự nghiệp viết nhạc và sự công nhận chủ đạo ===
[[Tập tinFile:Sia We Are Born Tour (cropped).jpg|nhỏthumb|240x240pxright|upright|Sia biểu diễn trực tiếp, năm 2011.]]
 
Tiếp nối thành công của ''We Are Born'', Sia cảm thấy không được thoải mái với danh tiếng đang lớn dần của mình. Cô nói với ''[[The New York Times]]'': "Tôi chỉ muốn có một cuộc sống riêng tư. Một lần, khi một người bạn tôi bảo tôi rằng họ bị ung thư, một người khác liền đứng dậy và hỏi tôi, ngay giữa cuộc hội thoại, rằng họ có thể chụp một tấm ảnh với tôi không. Bạn hiểu tôi chứ? Thế là đủ rồi, phải không?" Cô từ chối việc quảng bá cho tour của mình, bắt đầu đeo một cái mặt nạ trên sân khấu và dần dần trở nên phụ thuộc vào thuốc phiện và rượu chè; cô coi đó là tự sát. Sia sa thải Enthoven và thuê Jonathan Daniel, người đã gợi ý cho cô về việc viết bài hát cho các nghệ sĩ khác.
 
Hàng 83 ⟶ 85:
 
=== 2013–2014: Đột phá với ''1000 Forms of Fear'' ===
[[Tập tin:Maddie Ziegler May 2015-adj.jpg|trái|nhỏ|Maddie Ziegler tại lễ khai mạc của studio vũ đạo của Abby Lee Miller, ở [[Santa Monica, California]], vào tháng 5 năm 2015]]
{{listen
| filename = Sia - Chandelier.ogg
| format = [[Ogg]]
| title = "Chandelier"
| position = right
| description = Đoạn nhạc mẫu 21 giây trích từ bài hát "Chandelier", là đĩa đơn đầu tiên của album ''[[1000 Forms of Fear]]''.
}}
Vào tháng 10 năm 2013, Sia ra mắt "Elastic Heart" với sự góp mắt của [[The Weeknd]] và Diplo, là [[nhạc phim]] của bộ phim Mỹ ''[[The Hunger Games: Bắt lửa]]'' (2013). Sia đã điều hành sản xuất đĩa mở rộng ([[EP]]) đầu tay của Brooke Candy, ''Opulence'', ra mắt vào tháng 5 năm 2014, và đồng viết ra 3 bài hát có trong EP. Vào tháng 7 năm 2014, Sia ra mắt album phòng thu thứ sáu của mình, ''1000 Forms of Fear''. Cô tiếp tục hợp tác với Greg Kurstin. Album đứng ở vị trí thứ nhất trong ''Billboard'' 200 của Mỹ và bán được hơn 52.000 bản chỉ trong tuần đầu tiên. Đến tháng 10 năm 2015, nó được chứng nhận Vàng bởi [[RIAA]] biểu thị hơn 500.000 đơn vị album tương đương được bán ở Mỹ. Nó đứng ở vị trí thứ nhất tại Úc và vươn lên đứng trong top 10 của các bạng xếp hạng ở nhiều khu vực châu Âu. Nó được chứng nhận Bạc bởi [[British Phonographic Industry|Công nghiệp ghi âm Anh]] và chứng nhận Vàng bởi ARIA. Đến đầu năm 2016, album đã bán được 1 triệu bản trên toàn cầu.
 
{{sample box start variation 1|Nhạc mẫu:}}
{{multi-listen start|Audio sample of:}}
{{multi-listen item|filename=Sia - Chandelier.ogg|title="Chandelier" (2014)|description=Đoạn nhạc mẫu 21 giây từ "Chandelier", một bản [[ballad]] [[electropop]] chịu ảnh hưởng từ các dòng nhạc [[electronica]], [[R&B đương đại]] và [[reggae]].|format=[[Ogg]]}}
{{multi-listen end}}
{{sample box end}}
Đĩa đơn đầu tiên của ''1000 Forms of Fear'', "[[Chandelier (bài hát)|Chandelier]]", được ra mắt vào tháng 3 năm 2014. Bài hát đứng ở vị trí thứ 8 trong [[Billboard Hot 100|''Billboard'' Hot 100]], trở thành con đường dẫn lối cho Sia vào bảng xếp hạng như một nghệ sĩ hàng đầu. Ở những nơi khác, bài hát cũng được trải nghiệm những kinh nghiệm thương mại tương tự, được xếp hạng trong top 10 của nhiều [[bảng xếp hạng âm nhạc]] ở Úc và nhiều khu vực thuộc châu Âu. Tính đến tháng 1 năm 2015, đĩa đơn đã bán được hơn 2 triệu bản tại Mỹ. "Eye of the Needle" và "Big Girls Cry" được phát hành lần lượt như đĩa đơn thứ hai và thứ ba của album, vào tháng 6 năm 2014. Vào tháng 1 năm 2015, Sia ra mắt một phiên bản đơn ca của "Elastic Heart", là đĩa đơn thứ tư trích từ ''1000 Forms of Fear;'' nó cuối cùng cũng đã vươn lên top 20 trong bảng xếp hạng ''Billboard'' Hot 100. Tại [[giải Grammy lần thứ 57]] (2015), Sia nhận được bốn đề cử cho "Chandelier": [[Giải Grammy cho Thu âm của năm|Thu âm của năm]], [[Giải Grammy cho Bài hát của năm|Bài hát của năm]], [[Giải Grammy cho Trình diễn đơn ca pop xuất sắc nhất|Trình diễn đơn ca pop xuất sắc nhất]] và [[Giải Grammy cho Video âm nhạc xuất sắc nhất|Video âm nhạc xuất sắc nhất]].
 
[[Tập tin:Maddie Ziegler May 2015-adj.jpg|tráiphải|nhỏ|Maddie Ziegler tại lễ khai mạc của studio vũ đạo của Abby Lee Miller, ở [[Santa Monica, California]], vào tháng 5 năm 2015.]]
Về việc biểu diễn trực tiếp các bài hát từ ''1000 Forms of Fear'', Sia quyết định không để lộ khuôn mặt, hoặc là quay hướng khác so với hướng khán giả hay giấu mặt trong mái tóc vàng bạch kim dài quá khổ. Trong video âm nhạc của các đĩa đơn "Chandelier", "Elastic Heart" và "Big Girls Cry", chúng được biên đạo bởi Ryan Heffington và được đồng đạo diễn bởi Sia và Daniel Askill, và trong nhiều chương trình biểu diễn trực tiếp để quảng bá album, vũ công trẻ Maddie Ziegler được ủy quyển biểu diễn cho Sia trong một mái tóc màu vàng tương tự như phong cách để tóc quen thuộc của Sia. Ba video đã nhận được tổng cộng hơn 2,7 tỷ lượt xem trên [[Vevo]]. Sia giải thích cho Kristen Wiig trong một cuộc phỏng vấn của tạp chí ''Interview'' rằng cô quyết định che giấu khuôn mặt để tránh khỏi lối sống như một người nổi tiếng và duy trì được sự riêng tư: "Tôi đang cố gắng để có thể điều chỉnh được hình ảnh của tôi. Và tôi được phép duy trì một chút riêng tư. Nhưng đồng thời tôi cũng không muốn bị bỏ lạc lõng ở ngoài hay để người khác nhận thấy tôi vừa mới tăng hay sụt mất 10 pound (4,5 kg), hay việc tóc tôi mọc không đúng chỗ hay làn da rám nắng giả tạo của tôi bị phá hỏng. Hầu hết mọi người không cần thiết phải chịu đựng những áp lực đó, và tôi muốn trở thành một trong số họ." Video âm nhạc của ''Elastic Heart'' "chuốc lấy bất đồng và sự hoan nghênh tương đương nhau", cùng với việc một số nhà bình luận nhận thấy nó có một sự [[ái nhi]] ẩn ý đối với độ tuổi của các vũ công. Sia giải thích rằng hai vũ công thể hiện cho những "trạng thái xung khắc của bản thân 'Sia'", nhưng sau đó cô đã xin lỗi trên Twitter đến những người bị "traumakích trigger"động. Sự hợp tác của Sia và Heffington đã "làm nhiều thứ hơn việc nâng cao tiêu chuẩn của nhảy múa trong nhạc pop hơn gần như mọi nghệ sĩ cùng thời đang tích hợp lại hình thức này."
 
Vào năm 2014, Sia đóng góp cho [[nhạc phim]] cho bộ phim sản xuất năm 2014 dựa trên nhạc kịch [[sân khấu Broadway]] ''Annie''. Sia, cùng với nhà sản xuất Greg Kurstin, đã viết ra ba bài hát mới cho bộ phim cũng như làm việc lại với những bài hát của nhạc kịch. Sia, Kurstin và đạo diễn của ''Annie'' Will Gluck được đề cử tại [[giải Quả cầu vàng lần thứ 72]] cho giải [[Giải Quả cầu vàng cho ca khúc trong phim hay nhất|Ca khúc trong phim hay nhất]] với một trong những ca khúc trong phim, "Opportunity".