Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Phục Hưng”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
→‎Dịch hạch: (sửa cụm từ khốc hại, sang nặng nề)
n stub sorting, replaced: hế kỉ 12 → hế kỷ XII, hế kỷ 12 → hế kỷ XII (2), hế kỉ 13 → hế kỷ XIII (2), hế kỷ 13 → hế kỷ XIII, hế kỉ 14 → hế using AWB
Dòng 2:
{{bài cùng tên}}
[[Tập tin:David von Michelangelo.jpg|nhỏ|Tác phẩm ''[[David (Michelangelo)|David]]'' của [[Michelangelo]], (Phòng trưng bày Galleria dell'Accademia, [[Florence]]) là một ví dụ cho đỉnh cao nghệ thuật Phục Hưng]]
'''Phục Hưng''' ([[tiếng Pháp]]: ''Renaissance'', {{IPA-fr|ʁənɛsɑ̃ːs}}, {{lang-it|Rinascimento}}, từ ''ri-'' "lần nữa" và ''nascere'' "được sinh ra")<ref>{{Chú thích web|url=http://www.etymonline.com/index.php?search=renaissance&searchmode=none |title=Renaissance, Online Etymology Dictionary |publisher=Etymonline.com |date= |accessdate=ngày 31 tháng 7 năm 2009}}</ref> là một phong trào văn hóa thường được xem là bao phủ giai đoạn từ thế kỷ 15XV đến thế kỷ 17XVII, khởi đầu tại [[Firenze]] ([[Ý]]) vào [[Hậu kỳ Trung cổ|Hậu kỳ Trung Đại]], sau đó lan rộng ra phần còn lại của [[châu Âu]] ở những quy mô và mức độ khác nhau<ref name="Burke, P. 1998">Burke, P., ''The European Renaissance: Centre and Peripheries'' 1998)</ref>. Người ta cũng dùng từ Phục Hưng để chỉ, một cách không nhất quán, thời kỳ lịch sử diễn ra phong trào văn hóa nói trên.
 
Với tư cách một phong trào văn hóa, Phục Hưng bao hàm sự nở rộ của các nền văn học tiếng Latin cũng như các tiếng dân tộc, bắt đầu từ sự phục hồi việc nghiên cứu các tư liệu cổ điển, sự phát triển của phép [[phối cảnh|phối cảnh tuyến tính]] và các kỹ thuật nhằm biểu diễn hiện thực tự nhiên hơn trong mỹ thuật, và một cuộc cải cách giáo dục tiệm tiến nhưng phổ cập.<ref>{{chú thích web|url=http://cuwhist.wordpress.com/worldviews-hist-103/renaissance/ |title=Concordia University-Wisconsin, Department of History |publisher=Cuwhist.wordpress.com |date= |accessdate=ngày 23 tháng 12 năm 2013}}</ref>
Dòng 9:
</ref> cũng là đối tượng của những chỉ trích, rằng nó ngụ ý một sự mô tả thái quá về giá trị tích cực của thời kỳ này.<ref name="brotton">Brotton, J., ''The Renaissance: A Very Short Introduction'', [[Oxford University Press|OUP]], 2006 ISBN 0-19-280163-5.</ref>
 
Có một sự đồng thuận rằng thời kỳ Phục hưng bắt đầu ở Firenze, Italia, trong thế kỷ 14XIV.<ref name="Burke, P. 1998"/> Nhiều giả thuyết khác nhau đã được đề xuất để giải thích cho nguồn gốc và đặc điểm của nó, tập trung vào một loạt các yếu tố bao gồm đặc thù xã hội và công dân của Firenze tại thời điểm đó, cấu trúc chính trị của nó, sự bảo trợ của dòng họ thống trị, [[nhà Medici]],<ref name="strathern">Strathern, Paul ''The Medici: Godfathers of the Renaissance'' (2003)</ref><ref>[http://www.florentine-society.ru/Medici_Chapel_Mysteries.htm Peter Barenboim, Sergey Shiyan, ''Michelangelo: Mysteries of Medici Chapel'', SLOVO, Moscow, 2006]. ISBN 5-85050-825-2</ref> và sự di cư của các học giả và các bản văn Hy Lạp sang Ý sau [[sự thất thủ của Constantinopolis]] dưới tay người Thổ Ottoman<ref name=Britannica1>Encyclopædia Britannica, ''Renaissance'', 2008, O.Ed.</ref><ref name="Harris">Har, Michael H. ''History of Libraries in the Western World'', Scarecrow Press Incorporate, 1999, ISBN 0-8108-3724-2</ref><ref name="Norwich">Norwich, John Julius, ''A Short History of Byzantium'', 1997, Knopf, ISBN 0-679-45088-2</ref>.
 
== Tổng quan ==
[[Tập tin:Da Vinci Vitruve Luc Viatour.jpg|phải|nhỏ|256px|Bức ''[[Người Vitruvius]]'' của [[Leonardo da Vinci]] thể hiện ảnh hưởng của các tác giả cổ đại nên những nhà tư tưởng thời Phục Hưng. Dựa trên những đặc điểm miêu tả trong cuốn ''[[De architectura]]'' (Về Kiến trúc) của [[Vitruvius]] (thế kỉkỷ 1I trước CN), da Vinci thử vẽ một người với những tỉ lệ hoàn hảo.]]
Phục Hưng là một phong trào văn hóa đã tác động sâu sắc tới đời sống trí thức châu Âu trong thời sơ kỳ hiện đại. Bắt đầu ở Ý, lan ra khắp châu Âu vào thế kỉkỷ 16XVI, ảnh hưởng của nó hiện diện trong văn học, triết học, mĩ thuật, âm nhạc, chính trị, khoa học, tôn giáo, và các khía cạnh khác của đời sống tinh thần. Các học giả Phục Hưng sử dụng phương pháp [[chủ nghĩa nhân văn|nhân văn]] trong nghiên cứu, và khai thác hiện thực đời sống và cảm xúc con người trong nghệ thuật<ref name="perry-humanities">Perry, M. [http://college.hmco.com/humanities/perry/humanities/1e/students/summaries/ch13.html Humanities in the Western Tradition], Ch. 13</ref>.
 
Các nhà nhân văn Phục Hưng như [[Poggio Bracciolini]] đã lục tìm những tác phẩm văn học, lịch sử và hùng biện thời Cổ đại viết bằng tiếng Latin trong tàng thư ở các tu viện châu Âu, trong khi [[sự thất thủ của thành Constantinopolis]] (1453) tạo nên một làn sóng tỵ nạn của các học giả Hy Lạp mang lại nhiều bản thảo giá trị về [[Hy Lạp cổ đại]], mà phần nhiều đã rơi vào quên lãng trước đó ở phương Tây. Chính trong trọng tâm nghiên cứu mới về tài liệu văn học và lịch sử mà các học giả Phục Hưng khác biệt với các học giả Trung cổ của thời kỳ [[Phục Hưng thế kỷ 12XII]], những người tập trung vào nghiên cứu các công trình Hy Lạp và [[Ả Rập]] về khoa học tự nhiên, triết học và [[toán học]]. Trong sự hồi sinh của trường phái [[triết học tân Plato]], các nhà nhân văn Phục Hưng không chối bỏ Cơ đốc giáo, trái lại, nhiều công trình Phục Hưng vĩ đại nhất đã phục vụ nó, và Giáo hội bảo trợ nhiều tác phẩm nghệ thuật Phục Hưng. Tuy nhiên, một sự dịch chuyển tinh tế xảy ra trong cách mà các trí thức tiếp cận tôn giáo phản ánh trong nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống văn hóa. Hơn nữa, nhiều công trình Cơ đốc bằng tiếng Hy lạp, bao gồm kinh [[Tân Ước]] tiếng Hy Lạp, được mang về từ Byzantium lần đầu tiên cho phép các học giả phương Tây tiếp cận chúng. Ảnh hưởng mới của những tác phẩm Cơ đốc bằng tiếng Hy Lạp này, và đặc biệt là sự trở lại Tân Ước nguyên gốc bằng tiếng Hy lạp được những nhà nhân văn [[Lorenzo Valla]] và [[Erasmus]] khuyến khích, dọn đường cho [[Cải cách Kháng Cách]] về sau<ref>Open University,''[http://www.open.ac.uk/Arts/renaissance2/religion.htm Looking at the Renaissance: Religious Context in the Renaissance]'' (Retrieved ngày 10 tháng 5 năm 2007)</ref>.
 
Sau khi những bước đi quay về với [[chủ nghĩa cổ điển]] trong nghệ thuật được [[Nicola Pisano]] thí nghiệm, các họa sĩ Florence, đứng đầu là [[Masaccio]] đã nỗ lực minh họa hình dạng con người một cách hiện thực nhất, phát triển các kĩ thuật áp dụng phối cảnh và ánh sáng một cách tự nhiên hơn. [[Triết học chính trị|Các triết gia chính trị]], nổi tiếng nhất là [[Niccolò Machiavelli]] tìm cách mô tả đời sống chính trị theo cách lý tính, thay vì lý tưởng hóa như trước kia. Một đóng góp chủ chốt cho chủ nghĩa nhân văn Phục Hưng Ý là tác phẩm nổi tiếng của [[Pico della Mirandola]], ''"De hominis dignitate"'' ("Về Phẩm cách Con người", 1486), bao gồm một loạt bài tiểu luận về triết học, tư tưởng tự nhiên, niềm tin và ma thuật chống lại bất kì kẻ thù nào trong địa hạt lý trí. Thêm vào việc nghiên cứu tiếng Latinh cổ điển và tiếng Hy Lạp, các tác giả Phục Hưng cũng ngày càng sử dụng rộng rãi các ngôn ngữ dân tộc: kết hợp với sự xuất hiện của [[in ấn]], điều này cho phép ngày càng nhiều người tiếp cận được với sách, đặc biệt là Kinh Thánh<ref>Open University, [http://www.open.ac.uk/Arts/renaissance2/economic.htm#urban ''Looking at the Renaissance: Urban economy and government'']</ref>.
Dòng 25:
{{bài chính|Phục hưng Ý}}
 
Nhiều học giả cho rằng tư tưởng đặc trưng cho Phục hưng bắt nguồn từ thành phố [[Firenze]] (tức Florence) vào cuối thế kỷ 13XIII, với văn chương của [[Dante Alighieri]] (1265-1321) và [[Francesco Petrarca]] (1304-1374), cũng như các họa phẩm của [[Giotto di Bondone]] (1267-1337). Một số nhà văn xác định cụ thể điểm bắt đầu là năm 1401, khi hai tài năng kình địch [[Lorenzo Ghiberti]] và [[Filippo Brunelleschi]] tranh đua để giành hợp đồng xây dựng [[Nhà thờ Firenze]].<ref>Walker, Paul Robert, ''The Feud that sparked the Renaissance: How Brunelleschi and Ghiberti Changed the Art World'' (New York, Perennial-Harper Collins, 2003)</ref> Những người khác sử gia nhận thấy sự cạnh tranh rộng rãi giữa các nghệ sĩ, bác học như Brunelleschi, Ghiberti, [[Donatello]], và [[Masaccio]] về phận sự của nghệ thuật như một sự khuấy động sức sáng tạo của Phục Hưng. Tuy nhiên, vẫn còn rất nhiều tranh luận về lý do tại sao thời kỳ Phục hưng lại bắt đầu tại Ý, và tại sao nó lại bắt đầu vào một thời điểm như thế<ref>{{chú thích sách|last=Mack|first=Phyllis|title=Politics and Culture in Early Modern Europe|year=2002|publisher=Cambridge University Press|pages=62|url=http://books.google.com.vn/books?id=JdPcnVD2J0gC&pg=PA62&dq=intellectual+competition+between+scholars+and+artist+in+early+renaissance&hl=vi&sa=X&ei=ZS7_UdPgE8aEkwWGzoEI&ved=0CHEQ6AEwCQ#v=onepage&q=intellectual%20competition%20between%20scholars%20and%20artist%20in%20early%20renaissance&f=false}}</ref>. Bởi vậy, một số giả thuyết đã được đưa ra để giải thích nguồn gốc của Thời kỳ Phục Hưng.
 
===Phục hồi di sản La Mã và Hy Lạp===
Đối lập hoàn toàn với thời Trung kỳ Trung Đại, khi các học giả Latin tập trung chủ yếu vào nghiên cứu các công trình tiếng Hy Lạp và Ả Rập về khoa học tự nhiên, triết học và khoa học, các học giả Phục Hưng quan tâm chủ yếu đến việc khôi phục và nghiên cứu các tác phẩm văn học, lịch sử và hùng biện tiếng Latin và Hy Lạp. Nói một cách khái quát, điều này bắt đầu từ thế kỉkỷ 14XIV với một giai đoạn Latin, khi các học giả Phục Hưng như [[Francesco Petrarca|Petrarca]], [[Coluccio Salutati]] (1331-1406), [[Niccolò de' Niccoli]] (1364-1437) và [[Poggio Bracciolini]] (1380-1459) lùng sục các thư viện châu Âu để tìm kiếm các công trình của [[Cicero]], [[Titus Livius|Livius]] và [[Seneca]]<ref>{{harvnb|Reynolds|Wilson|1974|p=113–123}}</ref>. Tới đầu thế kỉkỷ 15XV, một khối lượng lớn tư liệu Latin được khôi phục, và các học giả phương Tây bắt đầu chuyển sự chú ý sang các tác phẩm thần học, hùng biện, văn học, lịch sử Hy Lạp<ref>{{harvnb|Reynolds|Wilson|1974|p=123, 130–137}}</ref>.
 
Khác với tư liệu Latin, những tư liệu Hy Lạp nhận được sự quan tâm rất hạn chế những thế kỷ đầu thời Trung Đại, trừ [[Byzantine]] vẫn tiếp tục nghiên cứu chúng như là di sản văn hóa chính thống của họ. Sự kiện thường được cho là đánh dấu sự trở lại của ngôn ngữ Hy Lạp trong nền học thuật châu Âu là vào cuối thế kỷ 14XIV khi Coluccio Salutati mời nhà ngoại giao và học giả Byzantine [[Manuel Chrysoloras]] tới Florence để dạy tiếng Hy Lạp<ref>{{harvnb|Reynolds|Wilson|1974|p=119, 131}}</ref>. Đặc biệt các cuộc [[Thập tự chinh]] và sau đó là sự sụp đổ của thành Constantinopolis năm 1453 đã dẫn đến làn sóng tỵ nạn của các học giả Byzantine sang châu Âu định cư, mang theo một khối tư liệu Hy Lạp vô cùng quý giá<ref name="Byzantine scholars">{{chú thích sách|last=Thomas|first=Carol G.|title=Paths from Ancient Greece|publisher=E.J. Brill|location=Leiden, Hà Lan|isbn=90-04-08846-6|pages=92|url=http://books.google.com.vn/books?id=JIdcStQg4g0C&pg=PA92&dq=byzantine+scholars+refuge+in+europe+after+the+fall+of+constantinople&hl=vi&sa=X&ei=Ouj9Ufn9JpG3lQWY0ICoAQ&ved=0CDwQ6AEwAg#v=onepage&q=byzantine%20scholars%20refuge%20in%20europe%20after%20the%20fall%20of%20constantinople&f=false}}</ref>.
 
===Nước Ý cuối thời Trung Cổ===
[[Tập tin:Italy 1494 AD.png|nhỏ|Bản đồ chính trị của [[Bán đảo Italia]] khoảng năm 1494.]]
Trong suốt giai đoạn cuối thời kỳ Trung cổ, tiền bạc và nghệ thuật đã luôn đi liền với nhau. Nghệ sĩ phụ thuộc hoàn toàn vào những nhà bảo trợ trong khi những nhà bảo trợ cần tiền để chu cấp cho các tài năng. Sự thịnh vượng đến với Ý trong các thế kỷ 14XIV, 15XV16XVI với sự mở rộng giao thương giữa châu Á và châu Âu. Nguồn bạc từ các mỏ ở [[Tyrol]] cũng giúp tăng cường dòng chảy của tiền bạc. Thành Genova và Venezia còn nhận được các chiến lợi phẩm và hàng hóa xa xỉ ở Phương Đông sau các cuộc [[Thập tự chinh]].<ref name="National Geographic Society">{{chú thích sách | last = Severy | first = Merle |coauthors = Thomas B Allen, Ross Bennett, Jules B Billard, Russell Bourne, Edward Lanoutte, David F Robinson, Verla Lee Smith| title = The Renaissance – Maker of Modern Man| publisher = National Geographic Society| year = 1970| isbn = 0-87044-091-8}}</ref>
 
Những thể chế chính trị độc đáo của Italia hậu kỳ Trung Đại khiến cho một số người lập luận rằng điều kiện xã hội khác thường của nó cho phép sự nảy nở văn hóa hiếm có. Italia không tồn tại một thực thể chính trị thống nhất ở thời kỳ này. Thay vào đó, nó chia thành nhiều lãnh địa, thị quốc lớn nhỏ: [[Vương quốc Napoli]] thống trị phương Nam, [[Cộng hòa Firenze]] và [[Lãnh địa Giáo hoàng]] ở trung tâm, [[Milan]] và [[Genova]] lần lượt ở phía bắc và phía tây, [[Venezia]] ở phía đông. Mặt khác, Italia thế kỉkỷ 15XV là một trong những khu vực đô thị hóa nhất châu Âu đương thời<ref>Kirshner, Julius, ''Family and Marriage: A socio-legal perspective'', [http://books.google.com/books?id=x9grA0fWpDMC&pg=PA89&lpg=PA89&dq=italy+urban+population+15th+century&sig=7QjemnDKllytG-1qNFygZFmlUD0 ''Italy in the Age of the Renaissance: 1300–1550''], ed. John M. Najemy (Oxford University Press, 2004) tr.89</ref>. Ở các thành phố này nhiều phế tích và dấu ấn La Mã vẫn còn duy trì, dường như bản chất cổ điển của Phục Hưng gắn với cội nguồn của nó tại nơi từng là trái tim của Đế quốc La Mã cổ xưa<ref>Burckhardt, Jacob, ''The Revival of Antiquity', [http://www.boisestate.edu/courses/hy309/docs/burckhardt/3-2.html ''The Civilization of the Renaissance in Italy]'' (trans. by S.G.C. Middlemore, 1878)</ref>.
 
[[Quentin Skinner]] chỉ ra rằng [[Otto của Freising]] người Đức thăm Italia thế kỉkỷ 12XII đã ghi nhận một dạng thức tổ chức xã hội và chính trị mới lan rộng khắp Italia, khiến cho Italia ít nhiều đã thoát ra khỏi [[chế độ phong kiến]] thông thường để tiến tới một xã hội dựa trên thương nhân và [[thương mại]]. Đi cùng với điều này là một tư tưởng chống quân chủ, như thể hiện trong nhóm tranh tường nổi tiếng ở [[Siena]] của [[Ambrogio Lorenzetti]], ''Ngụ ngôn về Chính phủ Tốt và Xấu'', với thông điệp mạnh mẽ về những đức tính bình đẳng, công bằng, chủ nghĩa cộng hòa và một nền cai trị công minh. Tự tách biệt mình khỏi cả Giáo hội và Đế quốc, các cộng hòa thành thị này tin tưởng vào lý tưởng tự do<ref>Skinner, Quentin, ''The Foundations of Modern Political Thought'', vol I: ''The Renaissance''; vol II: ''The Age of Reformation'', Cambridge University Press, tr. 69</ref>. Tuy rằng các thị quốc mang danh ''cộng hòa'' này về thực chất là các [[chính thể đầu sỏ]], chúng là các chính quyền chịu trách nhiệm trước dư luận và ít nhiều mang các đặc điểm của một nền dân chủ<ref>Stark, Rodney, ''The Victory of Reason'', New York, Random House, 2005</ref><ref>Martin, J. and Romano, D., ''Venice Reconsidered'', Baltimore, Johns Hopkins University, 2000</ref>; chính nền chính trị tương đối tự do này tạo điều kiện thuận lợi cho những tiến bộ về nghệ thuật và học thuật<ref name="burckhardt-republics">Burckhardt, Jacob, ''The Republics: Venice and Florence'', ''[http://www.boisestate.edu/courses/hy309/docs/burckhardt/1-7.html The Civilization of the Renaissance in Italy]'', translated by S.G.C. Middlemore, 1878.</ref>. Ngoài ra, vị trí của các thị quốc Italia, nhất là Venezia, như những trung tâm giao thương lớn của khu vực cho phép sự tiếp thu (cũng như truyền bá) tiến bộ. Những thương nhân mang lại nhiều ý tưởng mới từ khắp nơi trên thế giới, đặc biệt là miền [[Levant]]. Sự giàu có khổng lồ của các thương nhân và quý tộc Italia đem lại một công chúng rộng rãi cũng như các nhà bảo trợ hào phóng, cho phép các dự án nghệ thuật cá nhân nảy nở và nhiều người có nhiều thời gian thư nhàn cho nghiên cứu<ref name="burckhardt-republics"/>.
 
===Dịch hạch===
Một số người lập luận rằng sự tàn phá của [[Cái chết Đen]] ở [[Firenze]], đổ bộ vào châu Âu vào những năm 1348-1350, dẫn đến một sự thay đổi thế giới quan của người Italia thế kỉkỷ 14XIV. Italia là nơi chịu ảnh hưởng đặc biệt nặng nề của trận dịch hạch này, và người ta phỏng đoán rằng sự quen thuộc với chết chóc và bất lực của đức tin đã khiến cho nhiều nhà tư tưởng nhìn vào hiện thực trên trần gian hơn là tính tinh thần và thế giới bên kia.<ref>[[Barbara Tuchman]] (1978) ''A Distant Mirror'', Knopf ISBN 0-394-40026-7.</ref> Có người suy luận hoàn toàn khác, cho rằng Cái chết Đen đã làm gia tăng lòng mộ đạo thể hiện trong sự bảo trợ các tác phẩm nghệ thuật tôn giáo.<ref>[http://www.ucalgary.ca/applied_history/tutor/endmiddle/bluedot/blackdeath.html The End of Europe's Middle Ages: The Black Death] University of Calgary website. (Retrieved on ngày 5 tháng 4 năm 2007)</ref> Nhưng dù sao thì dịch hạch chỉ là một yếu tố, kết hợp với các yếu tố trên để giải thích sự xuất hiện Phục Hưng ở Ý.<ref name="brotton"/>
 
Mầm mống bệnh dịch đến từ những chiếc thuyền buồm trở về từ các cảng châu Á mang theo [[bọ chét]] và nhanh chóng lan rộng ro sự thiếu vệ sinh và y tế đương thời. Dân số Florence đã giảm gần một nửa chỉ trong năm 1347, kéo theo đó là một sự thiếu hụt nhân công lao động. Lương của người lao động tăng đáng kể, và người bình dân nhờ đó mà có nhiều tự do hơn, thậm chí còn du hành đi tìm những nơi có điều kiện làm việc thuận lợi nhất.<ref>Netzley, Patricia D. ''Life During the Renaissance.''San Diego: Lucent Books, Inc., 1998.</ref>
 
Sự suy giảm nhân khẩu đột ngột gây ra nhiều hậu quả kinh tế khác: giá thực phẩm và giá đất đai tụt mạnh từ 30 tới 40% ở nhiều miền ở châu Âu trong một nửa thế kỉkỷ ở giai đoạn 1350-1400<ref>Hause, S. & Maltby, W. (2001). ''A History of European Society. Essentials of Western Civilization'' (tập 2, tr. 217). Belmont, CA: Thomson Learning, Inc.</ref>. Những người sống sót trận dịch hạch hưởng quyền thừa kế những tài sản của những người quá cố, cũng như giá nhu yếu phẩm dễ chịu. Ở Firenze, đã có lúc thành phố rơi vào hỗn loạn tới mức hội đồng thành phố không thể nhóm họp, nhưng nhìn chung chính quyền vẫn duy trì hoạt động trong thời kì này.<ref>{{chú thích web|last=Hatty|first=Suzanne|title=Disordered Body: Epidemic Disease and Cultural Transformation|work=ebscohost|location=State University of New York|page=89|date=ebook|year=1999}}</ref>
 
<!--Đề nghị bỏ vì không thấy liên quan tới sự phát sinh Phục Hưng-->
Dòng 61:
{{chính|Triết học thời Phục Hưng}}
 
Triết học thời Phục Hưng cấu thành từ ba trường phái lớn: [[chủ nghĩa kinh viện]], [[chủ nghĩa nhân văn]], và những phái triết học "mới"<ref name="Hankin4">Hankin, J., "The Cambridge Companion of Renaissance Philosophy", Cambridge Univesity Press, 2007, tr.4</ref>. Trong đó, chủ nghĩa nhân văn tiêu biểu cho tư tưởng Phục Hưng. Ở một góc độ nào đó, chủ nghĩa nhân văn không hẳn là một triết lý mà là một phương pháp nghiên cứu. Mặc dù các sử gia đôi khi bất đồng trong việc xác định ý nghĩa chính xác chủ nghĩa nhân văn, hầu hết chọn "một lối định nghĩa trung dung... là phong trào khôi phục, giải thích, và đồng hóa ngôn ngữ, văn học, học tập và các giá trị của Hy Lạp và La Mã cổ đại".<ref>Burke, P., "The spread of Italian humanism", trong ''The Impact of Humanism on Western Europe'', đồng tác giả: A. Goodman và A. MacKay, London, 1990, tr. 2.</ref>. Những nhà nhân văn chủ nghĩa chối bỏ truyền thống kinh viện đương thời vốn dựa trên hai cột trụ chính là triết học Aristotle và thần học Thiên Chúa giáo. Người được cho là nhà nhân văn Ý đầu tiên là [[Francesco Petrarca]], người cổ vũ cho việc hướng nghiên cứu tư liệu cổ đại vào việc làm sống lại đạo đức xã hội Ý, quan tâm tới tất cả các tác giả cổ đại (kể cả những truyền thống phương Đông) chứ không chỉ Aristotle, đề cập tới các vấn đề thế tục liên quan tới con người, xã hội, và giáo dục hướng tới quần chúng<ref name=Hankin4/>. Những ý tưởng của Petrarca đã đi dần đi vào hiện thực Ý thế kỉkỷ 15XV và sau đó nở rộ, lan ra khắp châu Âu với nhiều nhà tư tưởng lớn: [[Thomas More]] (Anh), [[Michel de Montaigne]] (Pháp), [[Niccolò Machiavelli]] (Ý), [[Juan Luis Vives]] (Tây Ban Nha)<ref>Blum, P.R.,"Philosophers of the Renaissance", The Catholic University of America Press, 2010</ref><ref>{{chú thích web|author=Montaigne, Michel de Mechanical philosophy |url=http://history_philosophy.enacademic.com/243/Renaissance_philosophy_outside_Italy |title=Renaissance Philosophy Outside Italy |publisher=History_philosophy.enacademic.com |date= |accessdate=ngày 23 tháng 12 năm 2013}}</ref>.
 
[[Tập tin:Hans Holbein d. J. 065.jpg|nhỏ|170px|''Chân dung [[Thomas More]]'', tranh của Hans Holbein, 1527]]
Dòng 77:
Một trong những đặc điểm phân biệt của mỹ thuật thời kỳ Phục Hưng là sự phát triển phép phối cảnh tuyến tính có tính hiện thực cao. [[Giotto di Bondone]] (1267-1337), được coi là người đầu tiên thực hiện một tác phẩm bích họa như là một cánh cửa sổ để bước vào không gian<!--Cùng có thể dịch là Vũ trụ-->, nhưng tác phẩm của ông đã không gây được nhiều ảnh hưởng cho đến tận thời của [[Filippo Brunelleschi]] (1377–1446) và những tác phẩm tiếp theo của [[Leon Battista Alberti]] (1404-1472), quan điểm này được chính thức hóa thành một kỹ xảo nghệ thuật.<ref>Clare, John D. & Millen, Alan, ''Italian Renaissance'', London, 1994, tr. 14.</ref> Sự phát triển của quan điểm này là một phần của một xu hướng rộng lớn hơn đối với [[chủ nghĩa hiện thực]] trong nghệ thuật<ref>Stork, David G. ''[http://sirl.stanford.edu/~bob/teaching/pdf/arth202/Stork_SciAm04.pdf Quang học và chủ nghĩa hiện thực trong nghệ thuật thời kỳ Phục hưng]'' (Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2007)</ref>, đạt đến độ trưởng thành kể từ tranh tường của Masaccio (1401-1428). Để đạt được điều đó, các họa sĩ đã phải phát triển các kỹ thuật khác nhau, nghiên cứu mảng sáng-tối, nổi tiếng nhất trong số đó là trường hợp [[giải phẫu người]] của [[Leonardo da Vinci]]. Đằng sau những thay đổi trong phương pháp nghệ thuật, là một khao khát được làm mới lại muốn miêu tả vẻ đẹp của thiên nhiên, và làm sáng tỏ các tiên đề thẩm mỹ, với các tác phẩm đi đầu của Leonardo, Michelangelo và [[Raffaello]] đã đại diện cho đỉnh cao của thuật và đã được nhiều nhiều họa sĩ khác học hỏi. Những nhân vật đáng chú ý khác bao gồm [[Sandro Botticelli]], làm việc cho gia tộc Medici ở [[Firenze]], một người Firenze khác là [[Donatello]] và [[Tiziano Vecelli]] ở [[Venezia]], cùng nhiều người khác<ref>{{harvnb|Duiker|2004|p=356}}</ref>.
 
Đồng thời, tại [[Hà Lan]], khi mà văn hóa nghệ thuật đang phát triển, những tác phẩm tiêu biểu của [[Hugo van der Goes]] và [[Jan van Eyck]] đã gây nhiều ảnh hưởng đến sự phát triển của hội họa tại Ý, cả về kỹ thuật với sự ra đời của [[sơn dầu|sơn dầu trên vải]] lẫn phong cách trong sự diễn đạt về chủ nghĩa tự nhiên. (xem ''[[Thời kỳ Phục Hưng tại Hà Lan]]'') Sau này, những tác phẩm của [[Pieter Bruegel il Vecchio]] đã truyền cảm hứng cho các họa sĩ về chủ đề miêu tả cuộc sống hàng ngày. Sự giao thoa văn hóa bắc-nam châu Âu khiến cho từ thế kỷ 16XVI, có thể nói toàn châu Âu đã chuyển mình sang một nền mỹ thuật mới.<ref>{{harvnb|Duiker|2004|p=356-358}}</ref>
[[Tập tin:Leonardo da Vinci - presumed self-portrait - WGA12798.jpg|nhỏ|upright|trái|[[Leonardo da Vinci]] |Chân dung tự họa của [[Leonardo da Vinci]]. Những tác phẩm kinh điển của ông như ''[[Mona Lisa]]'', ''[[Bữa ăn tối cuối cùng (Leonardo da Vinci)|Bữa ăn tối cuối cùng]]'' và ''[[Người Vitruvius]]'' là đại diện cho nghệ thuật thời Phục Hưng]]
 
==== Kiến trúc ====
Kiến trúc Phục Hưng thường được chia làm ba giai đoạn chính: Phục Hưng hay Sơ kỳ Phục Hưng (thế kỉkỷ 15XV), Trung kỳ Phục Hưng (1500-1525), Trường phái kiểu cách (1525-1600). Kiến trúc sư [[Filippo Brunelleschi]] được coi là người tiên phong khuynh hướng nghiên cứu các tòa nhà thời cổ điển và tư liệu cổ đại (như tác phẩm của [[Vitruvius]]) cũng như hình học để tạo nên một phong cách mới, nhấn mạnh vào tính [[đối xứng]], tỉ lệ, tính đều đặn của các yếu tố. Một trong những công trình tiêu biểu nhất về kỹ thuật xây dựng mái vòm của Brunelleschi là [[Nhà thờ chính tòa Firenze]].<ref>Hooker, Richard, ''[http://www.cartage.org.lb/en/themes/arts/Architec/RenaissanceArchitecture/ArchitectureandPublicSpace/ArchitectureandPublicSpace.htm Architecture and Public Space]'' (Retrieved ngày 10 tháng 5 năm 2007)</ref>. Trong khi đó, công trình kiến ​​trúc nổi bật nhất trong thời kỳ Trung kỳ Phục Hưng là [[Vương cung thánh đường Thánh Phêrô]], kết hợp tài năng của các thiên tài thời bấy giờ là [[Bramante]], [[Michelangelo]], [[Raffaello]], [[Antonio da Sangallo trẻ|Sangallo]] và [[Carlo Maderno|Maderno]] <ref>{{chú thích sách|last=Fletcher|first=Banister|title=History of Achitecture on the Comparative Method for the student, craftsman and amateur|year=1975|publisher=Macmillan Pub Company|location=New York|isbn=9997460553}}</ref>.
 
Những kiểu thức cột thời La Mã được lựa chọn là: [[Thức cột Toscan|Toscan]], [[Thức cột Doric|Doric]], [[Thức cột Ionic|Ionic]], [[Thức cột Corinth|Corinth]] và kiểu hỗn hợp. Những thức cột này có thể được cấu trúc nhằm hỗ trợ những dãy cuốn<!--đường có mái vòm--> hay khuôn cửa, hoặc được dùng để trang trí hoàn toàn, hay còn được dùng để làm [[trụ bổ tường]]. Một trong những công trình đầu tiên sử dụng trụ bổ tường là tòa nhà Sagrestia Vecchia<!--dịch ra là Kho để đồ thánh--> (1421–1440) được xây dựng bởi Filippo Brunelleschi.<ref>{{chú thích sách|title=Filippo Brunelleschi: The Buildings|last=Saalman|first=Howard|publisher=Zwemmer|year=1993|isbn=0-271-01067-3}}</ref>
Dòng 87:
Những vòm thường có dạng hình phân (theo [[Trường phái kiểu cách]]) hay phân đoạn, thường được sử dụng với các dãy cuốn nhằm nối đầu cột này với đầu cột kia. Nó có thể là một phần nối đầu cột với đế vòm. Alberti là một trong những người đầu tiên sử dụng kiến ​​trúc mái vòm trên một đài kỷ niệm. Những mái vòm thời Phục Hưng thường không có thanh chống. Chúng thường là những phân đoạn hay là hình phân được trụ bởi một mặt phẳng hình vuông, trong khi những mái vòm trong những tòa được xây dựng theo [[Kiến trúc Gothic|phong cách Gothic]] thường vuông góc<ref>{{chú thích web|title=Architecture in Renaissance Italy|url=http://www.metmuseum.org/toah/hd/itar/hd_itar.htm|work=Heilbrunn Timeline of Art History|publisher=The Metropolitan Museum of Art|accessdate = ngày 5 tháng 8 năm 2013}}</ref>.
 
Từ khoảng thế kỉkỷ 16XVI, kiến trúc Phục Hưng Ý bắt đầu lan ra các miền khác của châu Âu, thay thế dần cho phong cách Gothic đang thống trị đương thời. Nhiều nghệ sĩ Ý được các triều đình, lãnh chúa đón rước và trả công hậu hĩnh cho việc xây cất, tuy nhiên cũng xuất hiện một số kiến trúc sư không phải người Ý có tiếng tăm, như [[Philibert de l'Orme]] (Pháp), [[Juan Bautista de Toledo|de Toledo]] (Tây Ban Nha) và [[Inigo Jones]](Anh)<ref name="Jan">Janson, H.W., Anthony F. Janson (1997). ''History of Art'', New York: Harry N. Abrams, Inc.. ISBN 0-8109-3442-6.</ref>.
<!--Nói chung về nghệ thuật--><!--Các nghệ sĩ thời Phục Hưng đều không phải là người thờ đa thần mặc dù họ ngưỡng mộ thời cổ đại và họ cũng giữ một số ý tưởng và biểu tượng của quá khứ thời trung cổ. [[Nicola Pisano]] (kh. 1220-kh. 1278) đã bắt chước hình thức cổ điển bằng cách mô tả cảnh từ [[Kinh Thánh]]. Sự loan báo về Nicola Pisano từ nhà rửa tội ở [[Pisa]], đã cho thấy rằng các hình thức cổ điển đã ảnh hưởng đến nghệ thuật Ý thời Phục hưng với gốc như là một trào lưu văn học.<ref>Hause, S. & Maltby, W. (2001). ''A History of European Society. Essentials of Western Civilization'' (Quyển 2, các trang 250–251). Belmont, CA: Thomson Learning, Inc.</ref>-->
 
Dòng 93:
Điêu khắc Phục Hưng được cho là có một điểm khởi đầu tương đối rõ ràng, với cuộc tranh đua giành hợp đồng xây dựng Nhà thờ Florence. Ghiberti, người chiến thắng, đã giới thiệu một phong cách cách tân rõ rệt so với nghệ thuật Gothic, với những chạm khắc bằng trên cánh cửa đồng của tu viện mang đậm nét cổ điển với nhiều tầng lớp có chiều sâu và hậu cảnh phong phú <ref>{{harvnb|Olson|1992|p=41-46}}</ref>. Chất liệu được ưa chuộng thời kỳ đầu Phục Hưng là tượng đồng sử dụng phương pháp đúc mẫu chảy <ref>{{chú thích web|last=Draper|first=James David|title=Bronze Sculpture in Renaissance|url=http://www.metmuseum.org/toah/hd/scbz/hd_scbz.htm|work=Heilbrunn Timeline of Art History|publisher=The Metropolitan Museum of Art|accessdate = ngày 4 tháng 8 năm 2013}}</ref>, sau đó chuyển dần sang tượng đá hoa cương, [[cẩm thạch]].
 
Phong cách của Ghiberti được tiếp nối bởi người từng là phụ tá của ông, [[Donatello]], sau đó là [[Andrea del Verrocchio]] và học trò của ông là Leonardo da Vinci<ref>{{harvnb|Olson|1992|p=149-150}}</ref>. Thời kỳ cũng chứng kiến xu hướng các tượng trong nhà thờ được trang trí bên trong thay vì các vườn tượng bên ngoài, trong khi các tượng đặt nơi công cộng như quảng trường, nhất là tượng bán thân, trở nên phổ biển, mô tả không chỉ những người đàn ông tiếng tăm mà đôi khi cả phụ nữ, trẻ em<ref>{{harvnb|Olson|1992|p=103-110}}</ref>. Điêu khắc Phục Hưng đạt đến đỉnh cao với Michelangelo, với khoảng 20 năm đầu thế kỉkỷ 16XVI ông dành cho nghệ thuật đã để lại các kiệt tác về mô tả cơ thể và cảm xúc con người như [[David (Michelangelo)|David]], Pietà, Moses, cụm tượng mộ Giáo hoàng Julius II<ref>{{harvnb|Olson|1992|p=79-182}}</ref><ref>{{harvnb|Duiker|2004|p=357}}</ref>.
 
===Nghệ thuật phi tạo hình===
Dòng 99:
{{Bài chính|Văn học thời phục hưng}}
 
Văn học Phục Hưng được hưởng lợi nhiều từ việc khôi phục, dịch lại các tác phẩm văn học Hy Lạp, La Mã, trình độ học vấn trung bình nâng cao và nhất là phát minh in ấn cho phép lưu hành tác phẩm rộng rãi<ref name=OnlineLit>{{chú thích web|title=Renaissance Literature|url=http://www.online-literature.com/periods/renaissance.php|publisher=Literature Network|accessdate = ngày 5 tháng 8 năm 2013}}</ref>. Trong khi có một sự chuyển dịch sang các đề tài thế tục trong thơ ca và văn xuôi thời kỳ đầu (đặc biệt với [[Boccacio]] và [[Pierre de Ronsard]]), nhiều kiệt tác vẫn mang ảnh hưởng tôn giáo đậm nét như Thần khúc của [[Dante]] <ref>{{chú thích sách|last=Steinberg|first=Theodore L.|title=Reading the Middle Ages|year=2003|publisher=McFarland & Company, Inc.|location=London|isbn=0-7864-1648-3|pages=121}}</ref>. Các thể loại mới cũng ra đời: Petrarca phổ biến sonnette vào thơ và văn xuôi, [[Michel de Montaigne]] sáng tạo nên tiểu luận (essay), còn [[Don Quichotte]] của [[Miguel de Cervantes]] thường được xem là mở đầu cho tiểu thuyết hiện đại. Trong thế kỷ 16XVI, trung tâm văn học Phục Hưng chuyển nên phía bắc với tiểu thuyết, thi ca Pháp ([[François Rabelais]], Pierre de Ronsard) và kịch nghệ Anh ([[William Shakespeare]], [[Christopher Marlowe]]).<ref>{{chú thích sách|last=Burke|first=Peter|title=The European Renaissance: Centres and Peripheries|year=1998|publisher=Blackwell Publishers Ltd|location=Oxford|isbn=0-631-19845-8|pages=101-105}}</ref>
 
Các nhà văn Phục Hưng là những người truyền bá mạnh mẽ nhất cho chủ nghĩa nhân đạo, ca ngợi lý trí, từ chối tính tầm thường và chủ nghĩa duy vật, phản ánh tinh thần thời đại bấy giờ; tuy nhiên có tác giả cho rằng có một dòng chảy chính trong nền văn chương thời đại đó phản ánh một quan niệm trần thế, vô luân và ít nhiều phản lý trí<ref>{{chú thích sách|last=Strier|first=Richard|title=The Unrepentant Renaissance: Form Petrach to Shakespeare to Milton|year=2011|publisher=The University of Chicago Press|location=Chicago, London|isbn=978-0-226-77751-1|pages=1-2}}</ref>.
Dòng 120:
Việc tái khám phá các tài liệu cổ đại cũng như phát minh in ấn ở châu Âu đã bình dân hóa việc học hành và phát triển trao đổi ý tưởng. Tuy nhiên trong thời kỳ đầu Phục Hưng, các nhà tư tưởng chính chủ yếu quan tâm tới các khoa học nhân văn hơn là [[triết học tự nhiên]] hay là [[toán học ứng dụng]]. Và sự hâm mộ các tư liệu cổ điển lại củng cố hơn nữa quan điểm của [[Aristotle]] và [[Ptolemaeus]] về vũ trụ<ref>Van Doren, Charles (1991) ''A History of Knowledge'' Ballantine, New York, [http://books.google.com/books?id=Tzmou_a0CCMC&pg=PA211 các trang 211–212], ISBN 0-345-37316-2</ref>.
 
Bất chấp điều đó, khoảng năm 1450, các bài viết của [[Nicholas Cusanus]] báo trước thế giới quan [[thuyết nhật tâm|nhật tâm]] của [[Copernicus]] theo cách diễn giải triết học. Nhà bác học lớn nhất của thế kỷ 15XV là Leonardo da Vinci, mặc dù thường được biết đến như một nhà phát minh, ông đã tiến hành các nghiên cứu khoa học một cách nghiêm túc, có hệ thống. Da Vinci đã tiến hành giải phẫu, quan sát và vẽ lại cơ thể người và động vật, thực hiện các thí nghiệm có kiểm soát về động học, khí động học và thủy động học, nhất là đã trình bày các nguyên tắc cơ bản của phương pháp khoa học. Fritjof Capra, người đã chỉ ra tầm quan trọng từng ít được chú ý của những nghiên cứu này, đã gọi ông là "cha đẻ của khoa học hiện đại" (thay vì Galilei hay [[Francis Bacon|Bacon]])<ref>Capra, Fritjof, ''The Science of Leonardo; Inside the Mind of the Great Genius of the Renaissance'', New York, Doubleday, 2007</ref>.
 
Phát kiến [[Tân Thế giới]] của [[Christopher Columbus]] đã mở ra một thế giới quan mới rộng rãi hơn nhiều, đồng thời các quan sát thực tiễn bắt đầu thách thức các quan niệm tưởng chừng vững chắc cổ xưa. Khi Cải cách Kháng Cách và [[Phong trào Chống Cải Cách|sự phản kích của Giáo hội]] đụng độ, Phục Hưng phương Bắc chứng kiến một sự chuyển dịch trọng tâm có tính quyết định từ triết học tự nhiên Aristotle sang hóa học và các khoa sinh vật học ([[thực vật học]], [[giải phẫu học]] và [[y học]])<ref>[[Allen Debus]], ''Man and Nature in the Renaissance'' (Cambridge: Cambridge University Press, 1978).</ref>. Những tiến bộ quan trọng cũng đạt được trong [[thiên văn học]], [[vật lý]], [[toán học]], [[sinh học]]<ref>{{chú thích sách
Dòng 140:
Những lý tưởng mới của chủ nghĩa nhân văn, mặc dù mang tính thế tục nhiều hơn trong một vài khía cạnh, đã phát triển dựa trên một nền tảng Cơ đốc giáo, đặc biệt ở phong trào Phục Hưng phương Bắc. Phần nhiều, nếu không nói là hầu hết, các tác phẩm nghệ thuật mới được đặt hàng hoặc hiến tặng cho Giáo hội<ref>Open University article on ''[http://www.open.ac.uk/Arts/renaissance2/religion.htm Religious Context in the Renaissance]'' (Retrieved ngày 10 tháng 5 năm 2007)</ref>. Tuy nhiên, Phục Hưng đã có một ảnh hưởng sâu sắc lên nền [[thần học]] đương thời, đặc biệt là trong cách mà con người nhận thức quan hệ giữa người và Chúa Trời<ref name="openuni"/>. Nhiều nhà thần học lỗi lạc của giai đoạn này là những nhà nhân văn hoặc đi theo phương pháp nhân văn chủ nghĩa, như [[Erasmus]], [[Huldrych Zwingli|Zwingli]], [[Thomas More]], [[Martin Luther|Luther]] và [[John Calvin|Calvin]].
 
Phục Hưng xuất hiện trong một thời đại của những nhiễu nhương tôn giáo. Thời Hậu kỳ Trung Đại chứng kiến một thời kỳ những mưu đồ chính trị bao quanh chế độ [[giáo hoàng]], mà đỉnh điểm là cuộc [[Ly giáo Tây phương]], trong đó ba người đồng thời tuyên bố mình là [[giám mục]] chân chính của [[giáo phận Rôma]] (tức Giáo hoàng)<ref>[[Catholic Encyclopedia]], ''[http://www.newadvent.org/cathen/13539a.htm Western Schism]'' (Retrieved ngày 10 tháng 5 năm 2007)</ref>. Mặc dù cuộc ly giáo cuối cùng cũng được giải quyết bằng [[Công đồng Constance]] (1414), nó đánh dấu sự sa sút nghiêm trọng danh dự của Giáo hội và thế kỉkỷ 15XV chứng kiến một phong trào cải cách mang tên [[Thuyết công đồng]] (tiếng Anh: ''conciliarism'') tìm cách hạn chế quyền lực cá nhân của Giáo hoàng. Mặc dù Giáo hoàng một lần nữa nắm quyền tối thượng trong sự vụ giáo hội kể từ [[Công đồng Lateran V]] (1511), chức vị này liên tục đi kèm với những cáo buộc tham nhũng, thối nát, nổi tiếng nhất là [[Giáo hoàng Alexanđê VI]], người bị buộc các tội [[tội mại thánh|mại thánh]], [[gia đình trị]], và có bốn người con trong khi làm Giáo hoàng, và gả chúng cho các hoàng tộc để thâu tóm quyền lực<ref>[[Catholic Encyclopedia]], ''[http://www.newadvent.org/cathen/01289a.htm Alexander VI]''</ref>.
 
Những giáo sĩ như Erasmus và Luther đề xuất cải cách Giáo hội, thường dựa trên việc bình chú [[Tân Ước]] theo khuynh hướng nhân văn chủ nghĩa<ref name="openuni">Open University, ''[http://www.open.ac.uk/Arts/renaissance2/religion.htm Looking at the Renaissance: Religious Context in the Renaissance]'' (Retrieved ngày 10 tháng 5 năm 2007)</ref>. Tháng 10 năm 1517, Luther công bố "95 Luận văn", thách thức quyền lực Giáo hoàng và chỉ trích sự mục nát của giáo hội, đặc biệt là việc buôn bán [[phép xá tội]]. Những luận văn này dẫn đến một cuộc đại cải cách, tức [[Cải cách Kháng Cách]], một sự cắt đứt với Giáo hội Công giáo La mã từng tuyên bố quyền thống trị ở Tây Âu. Do đó, chủ nghĩa nhân văn nói riêng và Phục Hưng nói chung đóng một vai trò trực tiếp trong sự bùng nổ Kháng Cách, cũng như nhiều cuộc tranh cãi và tranh chấp tôn giáo đương thời<ref name="Renaissance and Reformation">{{chú thích sách|last=Estep|first=William Rosoe|title=Renaissance and Reformation|year=1986|publisher=Wm. B. Eerdmans Publishing Co.|pages=ix|url=http://books.google.com.tw/books?id=dUENoh0ey4QC&printsec=frontcover&dq=renaissance+and+the+reformation&hl=en&sa=X&ei=AjktUdbUA4-80QGUxoCYDA&redir_esc=y#v=onepage&q=renaissance%20and%20the%20reformation&f=false}}</ref>.
 
===Tự ý thức===
Một đặc trưng quan trọng của thời Phục Hưng là các nhân vật của thời đại này ý thức được về bản sắc phong trào văn hóa mà mình đại diện. Đến thế kỷ 15XV, nhiều nhà văn, nghệ sĩ, kiến trúc sư ở Italia đã dùng những cụm từ như ''modi antichi'' (phong cách cổ đại) hay ''alle romna et alla antica'' (phong cách La Mã và cổ đại) để mô tả tác phẩm của mình. Trước đó, những năm 1330 Petrarca đã gọi thời đại trước Cơ đốc giáo là ''antiqua'' (cổ đại) và thời đại Cơ đốc giáo là ''nova'' (mới), chứng kiến sự lu mờ của quốc gia dân tộc<ref name=mommsen>{{chú thích tạp chí | last = Mommsen | first = Theodore |authorlink =Theodor Mommsen |title = Petrarch's Conception of the 'Dark Ages' | journal = [[Speculum (journal)|Speculum]] | volume = 17 | issue = 2 | pages = 226–242 |publisher = [[Medieval Academy of America]] | location = Cambridge MA | year = 1942| doi = 10.2307/2856364|jstor = 2856364 }}</ref>. [[Leonardo Bruni]] là người sử dụng cách phân kỳ 3 giai đoạn trong cuốn ''Lịch sử dân tộc Firenze'' (1442)<ref name="Hankins">Leonardo Bruni, James Hankins, ''History of the Florentine people'', Tập 1, quyển 1–4 (2001), tr. xvii.</ref>. Hai giai đoạn đầu của Bruni lấy lại từ Petrarca, nhưng ông thêm vào một thời đại thứ ba bởi tin rằng Italia đương thời không còn trong trạng thái suy tàn. [[Flavio Biondo]] sử dụng một nền tảng tương tự trong ''Những thập kỷ Lịch sử từ sự Suy tàn của Đế chế La Mã'' (1439-1453 <ref>{{chú thích tạp chí|last=Weisinger|first=Herbert|title=The Self-Ẩeness of the Renaissance as a Criterion of the Renaissance|journal=Papers of the Michigan Academy of Science, Arts and Literature|year=1944|volume=29|pages=561-567}}</ref>).
 
Các nhà sử học nhân văn chủ nghĩa biện luận rằng giới học giả đương thời đã khôi phục những liên hệ trực tiếp với thời cổ điển, do đó bỏ qua thời kỳ trung gian, mà họ lần đầu tiên gọi là thời [[Trung Đại]], mà bấy giờ trong các tài liệu tiếng Ý là ''media tempestas''<ref name="Albrow">Albrow, Martin, ''The Global Age: state and society beyond modernity'' (1997), Stanford University Press, [http://books.google.com/books?id=ZwmdxMMjOd4C&pg=PA205 tr. 205] ISBN 0-8047-2870-4.</ref>. Thuật ngữ ''la rinascita'' (sự tái sinh, phục hưng) cũng xuất hiện, tuy nhiên, trong nghĩa rộng mà [[Giorgio Vasari]] gán cho trong cuốn ''Vite de' più eccellenti architetti, pittori, et scultori Italiani'' ("Cuộc đời của các nhà kiến trúc, họa sĩ và nhà điêu khắc Ý tài ba", 1550)<ref name="panofsky">[[Erwin Panofsky|Panofsky, Erwin]]. ''Renaissance and Renascences in Western Art'', New York: Harper and Row, 1960.</ref><ref>The Open University Guide to the Renaissance, ''[http://www.open.ac.uk/Arts/renaissance2/defining.htm]''</ref>. Vasari chia thời đại này làm ba giai đoạn: giai đoạn đầu bao gồm [[Cimabue]], [[Giotto]], và [[Arnolfo di Cambio]]; giai đoạn hai gồm [[Masaccio]], [[Filippo Brunelleschi|Brunelleschi]], và [[Donatello]]; giai đoạn ba tập trung vào [[Leonardo da Vinci]] và [[Michelangelo]]. Theo Vasari, không chỉ là sự nhận thức đang lớn lên về thời cổ đại cổ điển thúc đẩy sự phát triển này, mà còn có vai trò của ham muốn nghiên cứu và bắt chước tự nhiên ngày càng tăng<ref>Sohm, Philip. ''Style in the Art Theory of Early Modern Italy'' (Cambridge: Cambridge University Press, 2001) ISBN 0-521-78069-1.</ref>.
Dòng 151:
==Lan rộng khắp châu Âu==
 
Trong thế kỉkỷ 15XV, Phục Hưng lan ra với tốc độ mạnh mẽ từ nơi khởi nguồn của nó là Florence, ban đầu là tới các miền khác của nước Ý, tiếp đó là phần còn lại của châu Âu. Sự phát minh của [[in ấn]] cho phép sự truyền bá nhanh chóng những ý tưởng mới. Khi lan rộng, các tư tưởng bắt đầu đa dạng hóa và biến đổi, thích nghi với văn hóa địa phương. Điều này khiến cho từ thế kỷ 20XX, các học giả bắt đầu chia Phục Hưng thành các phong trào vùng miền và quốc gia.
 
=== Phía bắc châu Âu===
{{Chính|Phục Hưng phương Bắc}}
[[Tập tin:Thetriumphofdeath.jpg|nhỏ|phải|Bức ''Le Triomphe de la Mort'' ("Thần Chết Khải hoàn", vẽ khoảng 1562) của [[Pieter Brueghel Già|Pieter Bruegel]] phản ánh những biến động và sợ hãi mang tính toàn xã hội theo sau bệnh dịch hạch tàn phá châu Âu Trung Cổ.]]
Phục Hưng xảy ra ở miền châu Âu phía Bắc nước Ý (chủ yếu ở Pháp, Đức, Anh, Hà Lan) được gọi là "Phục Hưng phương Bắc". Trong khi những tư tưởng Phục Hưng tiến từ Ý lên phía bắc, đồng thời lại có sự lan truyền đổi mới về phía nam trong một số lĩnh vực, đặc biệt là âm nhạc<ref>{{chú thích tạp chí|author=Láng, Paul Henry|jstor=738699|title=The So Called Netherlands Schools|journal=The Musical Quarterly|volume=25|issue= 1|year=1939|pages=48–59}}</ref>. Âm nhạc thế kỉkỷ 15XV của [[trường phái Burgundy]] xác định sự bắt đầu Phục Hưng trong ngành nghệ thuật này và tính phức điệu của trường phái Hà Lan, khi nó cùng các nhạc công xuống tới Ý, tạo nên cốt lõi của cái có thể xem là phong cách quốc tế thực sự đầu tiên trong âm nhạc kể từ sự tiêu chuẩn hóa [[Bình ca Gregoriano]] vào thế kỷ 9IX<ref name="musical-quarterly">{{cite journal|author=Láng, Paul Henry|jstor=738699|title=The So Called Netherlands Schools|journal=The Musical Quarterly|volume=25|issue= 1|year=1939|pages=48–59|doi=10.1093/mq/xxv.1.48}}</ref>. Đỉnh cao của trường phái Hà Lan cuối cùng lại hiện thực trong âm nhạc của một [[nhà soạn nhạc]] người Ý, [[Giovanni Pierluigi da Palestrina|Palestrina]]. Vào cuối thế kỷ 16XVI Ý một lần nữa lại trở thành trung tâm cách tân âm nhạc, với sự phát triển của phong cách phức điệu của trường phái Venezia, lan truyền lên phía bắc tới Đức vào khoảng 1600.
 
Tranh Phục Hưng Ý khác với tranh Phục Hưng phương Bắc. Các nghệ sĩ Ý là những người đầu tiên vẽ các khung cảnh thế tục, bứt khỏi nghệ thuật thuần túy tôn giáo của thời Trung Cổ. Ban đầu, các nghệ sĩ Bắc Âu vẫn tập trung vào các đề tài tôn giáo, như những bất ổn tôn giáo đương thời mô tả bởi [[Albrecht Dürer]]. Nhưng từ [[Pieter Bruegel]] họ bắt đầu chuyển sang các chủ đề của đời sống thường nhật, đi xa hơn về mảng này so với các tiền bối Ý. Chính trong Phục Hưng phương Bắc mà anh em người Hà Lan [[Hubert van Eyck|Hubert]] và [[Jan van Eyck]] đã hoàn thiện kĩ thuật vẽ [[tranh sơn dầu]], cho phép các nghệ sĩ tạo ra những gam màu mạnh trên một bề mặt cứng có thể tồn tại nhiều thế kỷ<ref>''[http://www.metmuseum.org/toah/hd/optg/hd_optg.htm Painting in Oil in the Low Countries and Its Spread to Southern Europe]'', [[Metropolitan Museum of Art]] website. (Retrieved ngày 5 tháng 4 năm 2007)</ref>. Một đặc điểm của Phục Hưng phương Bắc là nó sử dụng ngôn ngữ dân tộc thay vì tiếng Latin hay Hy Lạp, cho phép nhiều tự do biểu đạt hơn. Phong trào này với bắt đầu với [[Dante Alighieri]] ở Ý, tuy rằng chính việc chú trọng quá vào tiếng Ý đã làm hạn chế nguồn tư tưởng Firenze quan trọng vốn viết bằng tiếng Latin<ref>Celenza, Christopher (2004), ''The Lost Italian Renaissance: Humanists, Historians, and Latin's Legacy''. Baltimore, Johns Hopkins University Press</ref>.
Dòng 165:
[[Tập tin:Shakespeare.jpg|nhỏ|phải|[[William Shakespeare]] tác gia tiêu biểu của văn học Phục Hưng Anh đồng thời là nhà soạn kịch vĩ đại nhất của phong trào Phục Hưng nói chung.]]
 
Ở Anh, Phục Hưng bắt đầu xuất hiện với thời kỳ hoàng kim dưới triều đại [[Elizabeth I của Anh|Elizabeth]] (thế kỷ 16XVI). Trong khi nghệ thuật tạo hình Anh thời kỳ này không có gì đặc sắc, văn học và nền sân khấu Phục Hưng Anh lại phát triển mạnh với một loạt những nhà văn, nhà thơ, nhà soạn kịch lớn như [[William Shakespeare]], [[Christopher Marlowe]], [[Edmund Spenser]], [[Thomas More]], [[John Milton]], [[Francis Bacon]]<ref>Payne, M. and Hunter, J, The Renaissance Literature: An Anthology, Blackwell Publishing, 2003, tr. xii</ref>,. Trong hội họa, các họa sĩ Anh nổi bật với bức tranh [[tiểu họa]] chân dung; trong âm nhạc, ảnh hưởng đậm nét của âm nhạc Ý thể hiện trong các tác phẩm [[Thomas Tallis]], [[Thomas Morley]] hay [[William Byrd]]<ref name="Wainright2006">J. P. Wainright, 'England ii, 1603–1642' trong J. Haar, ed.,''European Music, 1520–1640'' (Woodbridge: Boydell, 2006), t. 509–21.</ref>.
 
==== Pháp ====
{{Bài chính|Nước Pháp thời phục hưng}}
 
Theo Michelet, Phục Hưng lan sang Pháp sau cuộc xâm lược Ý của vua [[Charles VIII của Pháp|Charles VIII]] (1494-1495)<ref name="Michelet">Michelet, Jules. History of France, trans. G. H. Smith (New York: D. Appleton, 1847)</ref>. Một nhân tố khuyến khích chủ nghĩa thế tục ở đây là sự bất lực của Giáo hội trong việc hỗ trợ đối phó lại [[Cái chết Đen]]. Tiếp đó, [[François I của Pháp|François I]] đã du nhập nghệ thuật cũng như các nghệ sĩ Ý, trong đó có Leonardo da Vinci, và cho xây dựng những cung điện lộng lẫy rất xa xỉ<ref>{{chú thích tạp chí|last=Tanaka|first=Hidemichi|title=Leonardo da Vinci, Architect of Chambord?|journal=Artibus et Historiae|year=1992|volume=13|series=25|pages=85-102|doi=10.2307/1483458}}</ref>. Năm 1533, thiếu nữ 14 tuổi [[Caterina de' Medici]], công nương Firenze cưới [[Henri II của Pháp|Henri]] con thứ của François. Mặc dù người phụ nữ này mang tiếng xấu để đời trong [[chiến tranh tôn giáo]], Caterina đã đóng vai trò quan trọng trong việc giới thiệu nghệ thuật, khoa học và âm nhạc (gồm cả [[ba lê]]) từ Florence tới cung đình Pháp <ref>{{chú thích sách|last=Knecht|first=R. J.|title=Catherine de' Medici|year=1998|publisher=Longman|location=London and New York|isbn=ISBN 0-582-08241-2|pages=220}}</ref>. Kết quả là các nhà văn lớn của Pháp thời kỳ này như François Rabelais, Pierre de Ronsard, [[Joachim du Bellay]] và Michel de Montaigne, các họa sĩ như [[Jean Clouet]] và các nhạc sĩ như [[Jean Mouton]] đã vay mượn nhiều tinh thần Phục Hưng Ý cho các kiệt tác của họ. Thế kỉkỷ 16XVI và thế kỉkỷ 17XVII, sự nở rộ văn hóa ở Pháp cùng trong thời kì nước này vươn lên thành cường quốc hàng đầu châu lục<ref>{{harvnb|Duiker|2004|p=371}}</ref> đã khiến cho sử gia Michelet quy cho Phục Hưng là một phong trào văn hóa Pháp<ref name="Michelet"/>
 
==== Đức ====
{{Bài chính|Nước Đức thời phục hưng}}
 
Vào nửa sau thế kỷ 15XV, tinh thần thời đại lan tới [[Đức]], nơi phát triển kỹ nghệ in (khoảng 1450) và các nghệ sĩ Phục Hưng thời kỳ đầu như các họa sĩ [[Jan van Eyck]] (1395–1441) và [[Hieronymus Bosch]] (1450–1516) và các nhà soạn nhạc [[Johannes Ockeghem]] (1410–1497), [[Jacob Obrecht]] (1457–1505) và [[Josquin des Prez]] (1455–1521) hưởng ứng ảnh hưởng Ý. Trong các miền theo Kháng Cách ban đầu của đất nước, chủ nghĩa nhân đạo trở nên liên hệ chặt chẽ với sự hỗn loạn của Cải cách Kháng Cách, và nghệ thuật cùng văn chương của Phục Hưng Đức thường phản ánh tranh cãi này<ref>{{chú thích tạp chí|jstor=560776|year=1965|title=The Religious Renaissance of the German Humanists|author=Strauss, Gerald|journal=English Historical Review|volume=80|issue=314|pages=156–157}}</ref>.
 
Tuy nhiên, phong cách gothic và triết học kinh viện Trung đại vẫn duy trì đáng kể cho đến đầu thế kỉkỷ 16XVI<ref>{{chú thích sách |last=Janson |first=H.W. |coauthors=Anthony F. Janson |year=1997 |title=History of Art |edition=5th, rev. |publisher=Harry N. Abrams, Inc. |location=New York |id=ISBN 0-810-93442-6}}</ref>, với [[Albrecht Dürer]] (1471-1528) thường được xem là đại diện lớn cuối cùng của phong cách Gothic nhưng đồng thời cũng là họa sĩ lớn nhất của nghệ thuật Phục Hưng Đức <ref>{{chú thích web|title=Albrecht Durer (1471-1528)|url=http://www.visual-arts-cork.com/old-masters/albrecht-durer.htm|work=ENCYCLOPEDIA OF ART|publisher=Visual Art|accessdate = ngày 5 tháng 8 năm 2013}}</ref>
 
==== Miền Flander ====
Dòng 184:
[[Tập tin:Holbein-erasmus.jpg|nhỏ|upright|[[Erasmus|Erasmus của Rotterdam]] năm 1523, tranh minh họa bởi [[Hans Holbein Trẻ]]]]
 
Xứ Flander (Bỉ, Hà Lan và một phần Đan Mạch ngày nay) ở thời Trung Đại là tập hợp những tỉnh tự trị dưới quyền [[Công quốc Burgundy]] hoặc Tây Ban Nha. Đây là một trong những vùng giàu có nhất Bắc Âu thế kỉkỷ 15XV với công nghiệp dệt và thương mại<ref name="Heughebaert">{{chú thích sách
| last = Heughebaert
| first = H.
Dòng 205:
| url = http://www.abramsbooks.com
| isbn = 0-8109-3442-6
}}</ref>. Tuy nhiên, ảnh hưởng tôn giáo trong nghệ thuật Hà Lan sâu đậm và kéo dài. Chỉ từ nửa sau thế kỉkỷ 16XVI, hội họa Hà Lan với phong cách [[Baroque]] thiên về mô tả các cảnh sinh hoạt đời thường mà đại diện tiêu biểu là [[Pieter Bruegel il Vecchio|Pieter Bruegel Già]]. Âm nhạc Bỉ trong trường phái Pháp-Bỉ trở nên thống trị nền âm nhạc châu Âu với các nhạc sĩ xuất sắc như [[Josquin des Prez]], [[Guillaume Dufay]], [[Johannes Ockeghem]]. Văn học không phải là một đặc sắc của Phục Hưng ở Flander, nhưng đây là quê hương của [[Erasmus]] "hoàng tử của chủ nghĩa nhân văn", nổi tiếng với các luận văn đả kích sâu cay tăng lữ và chủ nghĩa kinh viện.<ref>Latourette, Kenneth Scott. A History of Christianity. [[New York]]: Harper & Brothers, 1953, tr. 661.</ref>
 
=== Iberia===
Dòng 211:
{{Bài chính|Tây Ban Nha thời phục hưng}}
 
Phục Hưng đến bán đảo [[Iberia]] thông qua những dính líu của miền Đông bán đảo nằm trong [[Vương vị Aragon]] (một liên bang Địa Trung Hải bao gồm Nam Ý, một phần Tây Ban Nha, các đảo [[Sicilia]], [[Corse]], [[Malta]]) và thành phố hải cảng [[Valencia, Tây Ban Nha|Valencia]]. Mặt khác, nhiều nhà văn Phục Hưng Tây Ban Nha sớm nhất đến từ [[Vương quốc Aragon]], như [[Ausiàs March]] và [[Joanot Martorell]]. Ở [[Vương quốc Castile]], thời kỳ đầu Phục Hưng đã chịu ảnh hưởng sâu đậm của chủ nghĩa nhân văn Ý. [[Íñigo López de Mendoza]] đã giới thiệu thơ ca Ý vào Tây Ban Nha đầu thế kỉkỷ 15XV, tác động tới một thế hệ nhà văn kế tiếp đó, tiêu biểu là [[Miguel de Cervantes]] và nhà thơ, nhà viết kịch [[Lope de Vega]]. Chủ nghĩa nhân văn nở rộ ở đây đầu thế kỉkỷ 16XVI, với những đại diện như triết gia [[Juan Luis Vives]], nhà ngữ pháp [[Antonio de Nebrija]] hay nhà lịch sử tự nhiên [[Pedro de Mexía]]<ref name="SpanishRen">J.H. Elliot. "Imperial Spain: 1469&ndash;1716". Penguin Books, 1963. tr.385</ref>.
 
Giai đoạn sau của Phục Hưng Tây Ban Nha chứng kiến sự chuyển trọng tâm sang thuyết huyền bí và các chủ đề tôn giáo, với các nhà thơ [[Luis Ponce de León|fray Luis de León]], [[Têrêsa thành Ávila]] và [[Gioan Thánh Giá]], và đề cập tới cuộc khám phá [[Tân Thế giới]], với những nhà biên niên sử và nhà văn như [[Inca Garcilaso de la Vega]] hay [[Bartolomé de las Casas]], hợp thành nền văn học Tây Ban Nha Phục Hưng. Cũng giai đoạn này nghệ thuật Tây Ban Nha có những tiến bộ, với các tác phẩm của họa sĩ [[El Greco]] và các nhà soạn nhạc như [[Tomás Luis de Victoria]] và [[Antonio de Cabezón]]<ref name="SpanishRen"/>.
Dòng 220:
{{Bài chính|Bồ Đào Nha thời phục hưng}}
 
Trái lại, trong khi Phục Hưng Ý có ảnh hưởng khiêm tốn đối với nghệ thuật Bồ Đào Nha, chính quốc gia này lại có tầm quan trọng trong việc mở rộng thế giới quan châu Âu<ref name=JCBL>{{chú thích web|last=University|first=Brown, The John Carter Brown Library|title=Portuguese Overseas Travels and European Readers|url=http://www.brown.edu/Facilities/John_Carter_Brown_Library/Portugal/Overseas.html|work=Portugal and Renaissance Europe|publisher=JCB Exhibitions|accessdate=ngày 19 tháng 7 năm 2011}}</ref>, khuyến khích tinh thần nhân đạo. Như một căn cứ tiên phong của [[Thời đại khám phá]], [[Lisboa]] trở nên thịnh vượng vào cuối thế kỷ 15XV, thu hút các chuyên gia đã tạo nên những đột phá trong toán học, thiên văn học và kỹ thuật hàng hải như [[Pedro Nunes]], [[João de Castro]], [[Abraham Zacuto]] và [[Martin Behaim]]. Các nhà bản đồ học [[Pedro Reinel]], [[Lopo Homem]], [[Esteban Gómez]] và [[Diogo Ribeiro]] làm nên những tiến bộ quan trọng trong việc vẽ bản đồ thế giới<ref>{{chú thích web|url=http://www.danstopicals.com/reinel.htm |title=Pedro Reinel Carte on Danstopicals |publisher=Danstopicals.com |date= |accessdate=ngày 23 tháng 12 năm 2013}}</ref>. Dược sĩ [[Tomé Pires]] cùng các bác sĩ [[Garcia de Orta]] và [[Cristóbal Acosta]] sưu tầm và xuất bản những cuốn sách về thực vật và dược liệu <ref>{{chú thích sách|last=Boxer|first=C. R.|title=Two pioneers of tropical medicine: Garcia d'Orta and Nicolás Monardes|year=1963|publisher=Historical Medical Library|location=London|pages=13}}</ref>.
 
Trong kiến trúc, lợi nhuận khổng lồ từ việc buôn bán [[hồ tiêu]] cung cấp tài chính cho một phong cách tổng hợp đầy xa xỉ trong những thập niên đầu của thế kỉkỷ 16XVI, [[Manueline]], gắn với các yếu tố hàng hải<ref>{{chú thích sách|last=Bergin|first=Speake, Jennifer and Thomas G.|title=Encyclopedia of the Renaissance and the Reformation|year=2004|publisher=Infobase Publishing|isbn=0-8160-5451-7|url=http://books.google.com/books?id=VOb4hIp7EE8C&lpg=PP1}}</ref>
 
=== Đông và Nam Âu===
Dòng 244:
Thuật ngữ Phục Hưng lần đầu tiên được sử dụng có tính hồi chỉ bởi nhà phê bình, nghệ sĩ [[Giorgio Vasari]] (1511-1574) trong cuốn sách "Đời sống của Nghệ sĩ" (1550). Trong cuốn sách này Vasari đã nỗ lực định nghĩa cái mà ông mô tả là sự đoạn tuyệt với tính man rợ của [[nghệ thuật Gothic]]: Nghệ thuật đã suy tàn với sự sụp đổ của [[Đế quốc La Mã]], và chỉ các nghệ sĩ [[Tuscana]], khởi đầu từ [[Cimabue]] (1240-1301) và [[Giotto]] (1267-1337) tiến trình suy tàn mới đảo ngược. Theo Vasari, nghệ thuật cổ đại là trung tâm của sự tái sinh nghệ thuật Ý<ref>{{chú thích web|url=http://www.open.ac.uk/Arts/renaissance2/defining.htm |title=Defining the Renaissance, Open University |publisher=Open.ac.uk |accessdate=ngày 31 tháng 7 năm 2009}}</ref>.
 
Tuy nhiên, chỉ tới thế kỉkỷ 19XIX từ tiếng Pháp ''Renaissance'' mới phổ biến rộng rãi để mô tả phong trào văn hóa tự ý thức dựa trên việc làm sống lại những hình mẫu La Mã bắt đầu từ cuối thế kỉkỷ 13XIII. Phục Hưng lần đầu tiên được định nghĩa<ref name="mur"/> bởi nhà sử học Pháp [[Jules Michelet]] (1798-1874) trong công trình ''Histoire de France'' (Lịch sử nước Pháp) của ông. Đối với Michelet, Phục Hưng là một sự phát triển về khoa học hơn là văn hóa nghệ thuật. Ông khẳng định rằng nó bao trùm thời kỳ từ [[Christopher Columbus|Columbus]] tới [[Copernicus]] rồi [[Galileo]]; nghĩa là, từ cuối thế kỉkỷ 15XV tới giữa thế kỉkỷ 17XVII<ref name="Michelet"/>. Hơn nữa, Michelet phân biệt giữa cái mà ông gọi giữa tính chất "kỳ quái và gớm ghiếc" của thời Trung Cổ và các giá trị [[dân chủ]] mà ông, một người theo [[chủ nghĩa cộng hòa]] nhiệt thành, chọn như một đặc trưng của nó<ref name="brotton" />. Một người dân tộc chủ nghĩa Pháp, Michelet cũng tìm cách tuyên bố Phục Hưng là một phong trào của Pháp<ref name="brotton" />.
 
Trái lại, nhà sử học người [[Thụy Sĩ]] [[Jacob Burckhardt]] (1818–1897) trong cuốn ''Die Cultur der Renaissance in Italien'' (Về Văn hóa Phục Hưng ở Ý, 1860) mô tả Phục Hưng là giai đoạn giữa Giotto và Michelangelo ở Ý, tức là từ thế kỉkỷ 14XIV tới giữa thế kỉkỷ 16XVI. Ông nhìn thấy trong Phục Hưng sự xuất hiện của tinh thần hiện đại về [[chủ nghĩa cá nhân|cá nhân tính]], thứ đã bị đè nén ở thời Trung Đại<ref>Burckhardt, Jacob. ''[http://www.boisestate.edu/courses/hy309/docs/burckhardt/burckhardt.html The Civilization of the Renaissance in Italy]'' (trans. S.G.C Middlemore, London, 1878)</ref>. Cuốn sách của ông có một ảnh hưởng đậm nét lên sự hình thành lối diễn giải ngày nay về Phục Hưng ở Ý<ref>Gay, Peter, ''Style in History'', New York: Basic Books, 1974.</ref>. Tuy nhiên, nhiều người cáo buộc Buckhardt là đã áp đặt một cái nhìn tuyến tính đơn giản <ref>Nguyên văn tiếng Anh là "Whiggist" ("kiểu Whig"), chỉ lối chép sử dựa trên quan niệm rằng lịch sử là một tiến trình tiến lên không ngừng hướng tới nền [[dân chủ tự do]] và nhà nước [[chủ nghĩa lập hiến|lập hiến]]. Xem tại [[:en:Whig history]]</ref> khi xem Phục Hưng là nguồn gốc của thế giới hiện đại<ref name="starn">{{chú thích tạp chí|author=Starn, Randolph|jstor=2650779|title= Renaissance Redux|journal=The American Historical Review|volume=103|issue=1 |year=1998|pages=122–124}}</ref>.
 
Gần đây hơn, các nhà sử học ít còn theo đuổi chuyện định nghĩa Phục Hưng như một thời đại lịch sử, hay thậm chí một phong trào văn hóa mạch lạc. Randolph Starn, giáo sư sử học của [[Đại học California tại Berkeley]], khẳng định: "Thay vì một giai đoạn với những điểm khởi đầu và kết thúc rõ ràng và nội dung nhất quán giữa chúng, Phục Hưng có thể (và trước kia đôi khi đã) được xem như một phong trào của các hành động và ý tưởng hướng tới những nhóm cụ thể và những con người có thể nhận diện được đáp ứng một cách đa dạng theo những thời điểm và không gian khác nhau. Theo nghĩa này nó sẽ là một mạng lưới những văn hóa đa dạng, đôi khi hội tụ, đôi khi mâu thuẫn, chứ không phải một nền văn hóa đơn nhất, gắn chặt về thời gian"<ref name="starn" />.
Dòng 254:
Có một cuộc tranh cãi kéo dài từ lâu về mức độ tiến bộ mà Phục Hưng đã tạo nên đối với văn hóa Trung Đại. Cả Michelet và Burckhardt đều nhiệt liệt mô tả tiến bộ của thời Phục Hưng hướng tới [[hiện đại]]. Burckhardt ví sự thay đổi như việc gỡ một tấm mạng, dệt từ tín ngưỡng, ảo tưởng, thiên kiến, khỏi mắt con người để nhìn sự vật rõ hơn.<ref>{{chú thích web |last=Burckhardt |first=Jacob |authorlink=Jacob Burckhardt |url=http://www.boisestate.edu/courses/hy309/docs/burckhardt/2-1.html |title=The Civilization of the Renaissance in Italy|accessdate=ngày 31 tháng 8 năm 2008}}</ref>
 
Trái lại, nhiều sử gia hiện nay chỉ ra rằng hầu hết những nhân tố xã hội tiêu cực gắn với thời Trung Đại - chẳng hạn đói nghèo, chiến tranh, khủng bố chính trị và tôn giáo - dường như đã tồi tệ hơn trong chính giai đoạn này. Rõ ràng Phục Hưng là thời đại của [[Niccolò Machiavelli|nền chính trị Machiavelli đầy thủ đoạn]], [[Chiến tranh tôn giáo Pháp|các cuộc chiến tranh tôn giáo đẫm máu]], các Giáo hoàng hủ bại nhà [[Borgia]], và các cuộc [[săn phù thủy]] quy mô lớn thế kỉkỷ 16XVI. Nhiều người sống trong thời Phục Hưng dường như không xem nó là "[[thời đại hoàng kim]]" như cách các nhà nghiên cứu thế kỉkỷ 19XIX tưởng tượng, mà thay vào đó họ tỏ ra lo ngại về các vấn đề xã hội trên<ref>Sự nổi tiếng của [[Savonarola]] là một bằng chứng nổi bật cho sự bày tỏ lo ngại này. Các ví dụ khác bao gồm sự cấm đoán các bức tranh vẽ từ Florence của Vua [[Philip II của Tây Ban Nha]], được ghi nhận trong Edward L. Goldberg, "Spanish Values and Tuscan Painting", ''Renaissance Quarterly'' (1998) tr. 914</ref>. Điều đáng ngạc nhiên là, bất chấp như vậy, các nghệ sĩ, nhà văn, và các nhà bảo trợ tham gia vào các phong trào văn hóa liên quan tin rằng họ đang sống trong một kỷ nguyên mới-một sự cắt đứt rõ ràng với đêm trường Trung Cổ.<ref name="panofsky" /> Một số nhà [[chủ nghĩa duy vật lịch sử|sử học Marxist]] có xu hướng mô tả thời Phục Hưng bằng ngôn ngữ duy vật, giữ quan điểm rằng những thay đổi trong nghệ thuật, văn học, và triết học là một phần của khuynh hướng kinh tế chung từ [[chế độ phong kiến]] hướng tới [[chủ nghĩa tư bản]], hình thành một giai cấp [[tư sản]] với thời gian ư nhàn dành cho nghệ thuật<ref>[http://www.hull.ac.uk/renforum/v2no2/siar.htm Renaissance Forum] at [[Hull University]], Autumn 1997 (Retrieved on ngày 5 tháng 10 năm 2007)</ref>.
 
[[Johan Huizinga]] (1872-1945) ghi nhận sự tồn tại của Phục Hưng nhưng đặt vấn đề liệu nó có là một thay đổi tích cực. Trong cuốn "''The Waning of the Middle Ages''" (tạm dịch "''Sự tàn tạ của thời Trung Cổ''"), ông lập luận rằng Phục Hưng là một thời đại suy tàn từ [[Trung kỳ Trung Cổ|thời đỉnh cao Trung Đại]], phá hủy nhiều thành tựu quan trọng.<ref name="huizinga">[[Johan Huizinga|Huizanga, Johan]], ''[[The Waning of the Middle Ages]]'' (1919, trans. 1924)</ref> Ví dụ, [[tiếng Latinh]] đã tiến hóa mạnh mẽ từ thời cổ điển và vốn là một [[sinh ngữ]] sử dụng trong và ngoài nhà thờ. Sự ám ảnh Phục Hưng với tính thanh khiết cổ điển của nó đã chấm dứt những tiến hóa tiếp theo và tiếng Latin quay trở về dạng thức cổ điển của nó. Robert S. Lopez quả quyết rằng đó là một thời kỳ [[suy thoái kinh tế]] nặng nề.<ref>{{chú thích tạp chí|author=Lopez, Robert S., and Miskimin, Harry A.|title=The Economic Depression of the Renaissance|journal=Economic History Review|jstor=2591885|volume= 14 |year=1962|pages=408–26|doi=10.1111/j.1468-0289.1962.tb00059.x|issue=3}}</ref>, còn [[George Sarton]] và [[Lynn Thorndike]] lập luận rằng những tiến bộ khoa học có lẽ ít độc đáo hơn là như trước nay vẫn quan niệm.<ref>{{chú thích tạp chí|authorlink=Lynn Thorndike|author=Thorndike, Lynn|year=1943|title=Some Remarks on the Question of the Originality of the Renaissance|pages=49–74|journal=Journal of the History of Ideas|jstor=2707236|volume= 4|issue=1|doi=10.2307/2707236|last2=Johnson|first2=F. R.|last3=Kristeller|first3=P. O.|last4=Lockwood|first4=D. P.|last5=Thorndike|first5=L.}}</ref> Cuối cùng, [[Joan Kelly]] chỉ ra rằng Phục Hưng dẫn tới sự bất bình đẳng giới gia tăng.<ref>Kelly-Gadol, Joan. "Did Women Have a Renaissance?" ''Becoming Visible: Women in European History.'', Renate Bridenthal và Claudia Koonz. Boston: Houghton Mifflin, 1977.</ref>
Dòng 261:
 
=== Các cuộc Phục hưng văn hóa khác===
Từ Phục Hưng châu Âu, thuật ngữ "Phục Hưng" được sử dụng cho các thời đại khác. Chẳng hạn, [[Charles H. Haskins]] đặt ra khái niệm [[Phục Hưng thế kỷ 12XII]] (thời Trung kỳ Trung Đại)<ref>Haskins, Charles Homer, ''The Renaissance of the Twelfth Century'', Cambridge: Harvard University Press, 1927 ISBN 0-674-76075-1.</ref>, trong khi một số người khác biện luận về sự tồn tại của [[Phục Hưng Karolinger]] (ở [[vương quốc Frank]]), hoặc sau đó là Phục Hưng Otto (ở [[Đế quốc La Mã Thần thánh]])<ref>Hubert, Jean, ''L'Empire carolingien'' (English: ''The Carolingian Renaissance'', translated by James Emmons, New York: G. Braziller, 1970).</ref>. Tên này cũng dùng cho những phong trào văn hóa gần thời hiện đại hơn như [[Phục Hưng Bengal]], [[Phục Hưng Nepal Bhasa]], [[Phục Hưng Harlem]]. Trong cuốn ''Renaissances: The One or the Many?'', tác giả Jack Goody biện luận rằng có Phục Hưng châu Âu nằm trong một sự phục hưng văn hóa rộng khắp trên thế giới ở các miền [[Hồi giáo]] và [[Trung Quốc]] đương thời và giữa chúng có giao thoa với nhau.<ref>{{chú thích sách|last=Goody|first=Jack|title=Renaissance: The One or the Many?|year=2010|publisher=Cambridge University Press|location=Cambridge|isbn=978-0-521-74516-1|pages=1-6}}</ref>
 
== Xem thêm ==