Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nguyễn Chánh Sắt”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Qbot (thảo luận | đóng góp)
n Qbot: Việt hóa
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
[[Tập tin:Mộ Nguyễn Chánh Sắt.jpg|nhỏ|phải|200px| Phần mộ Nguyễn Chánh Sắt và vợ tại Tân Châu.]]
 
'''Nguyễn Chánh Sắt''' ([[1869]]–[[1947]])<ref>TheoGhi theo ''Tân Châu xưa'', Nguyễn Kiểm và Huỳnh Minh, NXB Thanh Niên, 2003 và ''Từ điển văn học'' (bộ mới),. NXBTuy Thế giớinhiên, 2004. Riêng bia mộ thì ghi ông sinh 1871 năm [[Ất Dậu]] ([[1871]]), mất ngày 18 [[tháng 34]] năm 1946,[[Bính nhằm ngàyTuất]] (18 [[tháng 4 âm lịch3]] năm Bính Tuất[[1946]]). Theo cách qui đổi, thì năm [[dương lịch]][[âm lịch]] ghi trên bia mộ không khớp nhau., Cầncần tìm hiểu thêm.</ref> tự ''Bá Nghiêm'', hiệu ''Tân Châu'', bút hiệu: ''Du Nhiên Tử,'' và '' Vĩnh An Hà''<ref> ''Vĩnh An Hà'' là tên một con kênh đào, chạy cặp theo con lộ nhựa [[Tân châu Châu]]- [[Châu Đốc]].</ref>. Ông là [[nhà văn]] kỳ cựu, nhàmột biêntiểu dịchthuyết gia tiên phong, một trongdịch nhữnggiả ngườisung đầusức tiêntrong làmgiai báođoạn chữ [[Quốc ngữ]] mới phát triển tại [[Việt Nam]]<ref>Đánh giá của ''Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam'', tr. 495.</ref>.
 
==Tiểu sử==
'''Nguyễn Chánh Sắt''', quê quánsinh ở làng Long Phú, huyện [[Tân Châu]], tỉnh [[Châu Đốc]],; nay thuộc thị trấn Tân Châu, huyện [[Tân Châu]], tỉnh [[An Giang]].<ref> Vài sách trong đó có bộ ''Tự điển Văn học Việt Nam'' (bộ mới), sách đã dẫn, ghi huyện Phú Châu là nhầm lẫn. Tỉnh An Giang không có huyện Phú Châu.</ref>
 
Cha ông là Nguyễn Văn Tài, một nông dân nghèo. Từ thuởThuở nhỏ, ôngNguyễn Chánh Sắt đến làm con nuôi ông Nguyễn Văn Bửu và bà Trần Thị Nghiêm, một gia đình khá giả trong xóm, nhưng không có con để nối nghiệp. Nhờ vậy, ông Sắt được theo học chữ Nho với thầy [[Trần Hữu Thường]], rồi trường tiểu học Pháp - Việt Châu Đốc.
 
ĐỗĐến xongtuổi bằngđi học, ông theo học [[chữ Hán]] với thầy [[Trần Hữu Thường]], rồi trường tiểu học Pháp-Việt [[Châu ViệtĐốc]]. Đỗ xong bằng tiểu học, đượcthì cha nuôi cưới vợ cho ông. Vợ ông tên là Văng Thị Yên (1872 - 1944), người cùng làng; và bà với ông đã có cả thảy 2 trai, 7 gái.
 
Đến khi cha mẹ nuôi đều mất. Để đủkiếm chi tiêusống, vợ ông phải ralàm nghề mua bán nhỏ ở chợ Tân Châu., còn ông thì ở nhà trông nom gia đình và tự học thêm
[[chữ Hán]], [[tiếng Pháp|chữ Pháp]].
Trong thời gian này, Nguyễn Chánh Sắt quen thân thiếu tá người Pháp tên De Colbert, có sở Kén (nuôi tằm lấy tơ) tại Tân Châu. Làm ăn thất bại, De Colbert được nhà cầm quyền Pháp, cử làm giám đốc nhà lao [[Côn Lôn]], và ông Sắt được mời đi theo làm thông ngôn.
 
Trong thời gian này, Nguyễn Chánh Sắt quen được viên thiếu tá người [[Pháp]] tên là De Colbert, có sở Kén (nuôi tằm lấy tơ) tại [[Tân Châu]]. Vì làm ăn thất bại, De Colbert được nhà cầm quyền Pháp, cử làm giám đốc nhà lao Côn Lôn ([[Côn Đảo]]), và ông Sắt được mời đi theo làm thông ngôn. Ở đảo, ông có dịp gần gũi các nhà Nhophu yêu nước bị lưu đày và học thêm [[chữ Hán]].
Bốn năm sau, De Colbert bị bệnh [[kiết lỵ]] phải đưa về [[Sài Gòn]] chữa trị, không khỏi rồi qua đời. Do đó Nguyễn Chánh Sắt xin nghỉ việc ở Côn Nôn, về làm việc ở các sở Canh nông, Công chánh, Ðịa chánh tại Sài Gòn, rồi chuyển sang dạy chữ Hán tại Trường trung học Tabert.
 
Bốn năm sau, De Colbert bị bệnh [[kiết lỵ]] phải đưa về [[Sài Gòn]] chữa trị, nhưng không khỏi rồinên qua đời. DoMất đóchỗ dựa, Nguyễn Chánh Sắt xin nghỉ việc ở Côn NônLôn, về làm[[Sài việcGòn]] lần lượt làm ở các sở Canh nông, Công chánh, Ðịa chánh tại Sài Gòn, rồi chuyển sang dạy chữ Hán tại Trường trung học Tabert.
Đi dạy, ông Sắt quen ông Canavaggio rồi nhận lời xuống [[Bạc Liêu]], trông coi việc khai thác ruộng muối cho ông này.
 
Đi dạy, ông Sắt quen được ông Canavaggio rồi nhận lời xuống [[Bạc Liêu]], trông coi việc khai thác ruộng muối cho ông này.
Năm 1990, ông Sắt trở lên Sài Gòn, cộng tác với tờ ''[[Nông cổ mín đàm]]'' và bắt đầu dịch nhiều truyện Tàu (truyện dịch đầu tiên là truyện Tây Hớn (Hán)). Năm 1906, ông làm chủ bút báo ''[[Lục tỉnh tân văn]]'' và cộng tác với [[Trần Chánh Chiếu]] lập ''Nam Kỳ kỹ nghệ công ty'' trong ''Hội Minh tân'' ở Sài Gòn - [[Mỹ Tho]], để vừa cạnh tranh với tư bản nước ngoài, khuếch trương công nghệ trong nước, vừa bí mật ủng hộ phong trào Đông du của [[Phan Bội Châu]].
 
Năm 1908, Hội Minh tân đổ vỡ, Trần Chánh Chiếu bị bắt, riêng ông may mắn thoát được.
Năm [[1990]], Nguyễn Chánh Sắt trở lên [[Sài Gòn]], cộng tác với tờ ''[[Nông cổ mín đàm]]'' và bắt đầu dịch nhiều truyện [[Trung Quốc|Tàu]] (truyện dịch đầu tiên là truyện ''Tây Hớn'', gồm 3 quyển, do nhà xuất bản J. Viết ấn hành).
 
Năm 1990, ông Sắt trở lên Sài Gòn, cộng tác với tờ ''[[Nông cổ mín đàm1906]]'' và bắt đầu dịch nhiều truyện Tàu (truyện dịch đầu tiên là truyện Tây Hớn (Hán)). Năm 1906, ông làm chủ bút báo ''[[Lục tỉnh tân văn]]'' và cộng tác với [[Trần Chánh Chiếu]] lập ''Nam Kỳ kỹ nghệ công ty'' trong ''Hội Minh tân'' ở Sài Gòn - [[Mỹ Tho]], để vừa cạnh tranh với tư bản nước ngoài, khuếch trương công nghệ trong nước, vừa bí mật ủng hộ [[phong trào Đông du]] của chí sĩ [[Phan Bội Châu]].
Năm [[1908]], Hội[[Phong trào Minh Tân|hội Minh tânTân]] đổ vỡ, Trần Chánh Chiếu bị bắt, riêng ông may mắn thoát được.
Năm 1912, Nguyễn Chánh Sắt lại xuống Bạc Liêu làm ruộng. Bị thất mùa nhiều vụ, năm 1916, ông trở lại Sài Gòn, tiếp tục làm chủ bút tờ ''Nông cổ mín đàm'' và cùng với ông Nguyễn Văn Của lập ''Nam Kỳ nhựt báo ái hữu hội''. Trong thời gian này, ông sáng tác tiểu thuyết ''Nghĩa hiệp kỳ duyên'' (1920), mang nhiều tình tiết éo le, gay cấn nên rất lôi cuốn đông đảo độc giả; và người ta đã lấy tên một nhân vật nổi tiếng trong tiểu thuyết này, để đặt cho ông biệt danh "Monsieur Chăng Cà Mum”.
Năm [[1912]], Nguyễn Chánh Sắt lại xuống [[Bạc Liêu]] làm ruộng. Bị thất mùa nhiều vụ, năm [[1916]], ông trở lại Sài Gòn, tiếp tục làm chủ bút tờ ''Nông cổ mín đàm'' và cùng với ông Nguyễn Văn Của lập ''Nam Kỳ nhựt báo ái hữu hội''.
Năm 1912, Nguyễn Chánh Sắt lại xuống Bạc Liêu làm ruộng. Bị thất mùa nhiều vụ, năm 1916, ông trở lại Sài Gòn, tiếp tục làm chủ bút tờ ''Nông cổ mín đàm'' và cùng với ông Nguyễn Văn Của lập ''Nam Kỳ nhựt báo ái hữu hội''. Trong thời gian này, ông sáng tác tiểu thuyết ''Nghĩa hiệp kỳ duyên'' ([[1920]]), mang nhiều tình tiết éo le, gay cấn nên rất lôi cuốn đông đảo độc giả; và người ta đã lấy tên một nhân vật nổi tiếng trong tiểu thuyết này, để đặt cho ông biệt danh "Monsieur Chăng Cà Mum”.
 
Năm [[1920]], nhân chuyến về thăm quê nhà, ông được nhân dân địa phương cử giữ chức hương quản xã Long Phú (thuộc Tân Châu). Năm [[1921]], ông được cử Phụ thẩm Tòa án [[Sài Gòn]].
 
Năm [[1922]], Canavaggio mất, ông Sắt kiêm luôn chức chủ nhiệm báo'' Nông cổ mín đàm''.
Năm 1920, nhân chuyến về thăm quê nhà, ông được nhân dân địa phương cử giữ chức hương quản xã Long Phú (thuộc Tân Châu). Năm 1921, ông được cử Phụ thẩm Tòa án Sài Gòn.
Năm 1922, Canavaggio mất, ông Sắt kiêm luôn chức chủ nhiệm báo'' Nông cổ mín đàm''.
Tuổi già, ông Sắt về ẩn dật tại quê nhà Tân Châu. Ông mất ngày 6 [[tháng 6]] năm [[1947]], hưởng thọ 78 tuổi. Hiện mộ phần ông và vợ tại Long Phú, huyệnthị xã Tân Châu, tỉnh [[An Giang.]] <ref>Gần Long Đức Tự, có con đường tục gọi là Đường Chùa. Từ đầu đường vào khoảng 100 m, phía bên phải là mộ vợ chồng Nguyễn Chánh Sắt. Hai ngôi mộ nằm trên một nền đất thấp, nước tù đọng và nhiều cỏ dại. Phía góc phải ngôi mộ ông Sắt bị sạt lở một góc. Dù tên ông đã được chính quyền chọn để đặt tên một con đường khá lớn tại Tân Châu, nhưng hai ngôi mộ trông thật thiếu chăm sóc và quạnh quẽ.
Chính phần đất này, vào năm 1939, là nơi xảy ra vụ việc [[Đạo Tưởng]] hô hàocùng tín đồ nổi lên chống Pháp.</ref>.
 
==SángTác tácphẩm==
Các truyện do Nguyễn Chánh Sắt sáng tác, có:
*''Nghĩa hiệp kỳ duyên'' (tức Chăng Cà Mun, tiểu thuyết xã hội, 1920)
*''Gái trả thù cha'' (''tiểu thuyết trinh thám, 4 tập, Sài Gòn, 1920''-1925)
*''Tình đời ấm lạnh'' (''xã hội, 1922'')
*''TàiTình mạngđời tươngấm đốlạnh'' (''tâmtiểu thuyết tưởng, 1925''Chợ Lớn, 1922)
*''Tài mạng tương đố'' (tiểu thuyết tâm lý, 2 tập, Sài Gòn, 1925)
*''Lòng người nham hiểm'' (''tiểu thuyết xã hội, Sài Gòn, 1926'')
*''Giang hồ nữ hiệp'' (''kiếm hiệp, 1928'')
*Man hoang kiếm hiệp (tiểu thuyết kiếm hiệp, nhà in Lưu Đức Phương, Sài Gòn,?)
*''Việt Nam Lê Thái Tổ'' (''lịch sử, 1929'')
*''MộtGiang đôihồ hiệpnữ kháchhiệp'' (''tiểu thuyết kiếm hiệp, 1929''nhà in Lưu Đức Phương, 1928)
*''Việt Nam Lê Thái Tổ'' (''tiểu thuyết lịch sử, nhà in Lưu Đức Phương, 1929'')
*''Trinh hiệp lưỡng nữ'' (''kiếm hiệp, không ghi năm'')...
*''Một đôi hiệp khách'' (tiểu thuyết kiếm hiệp, 1929)
*''Trinh hiệp lưỡng nữ'' (''tiểu thuyết kiếm hiệp, không ghi năm''?)...
 
Truyện dịch của ông, có các bộ truyện Tàu ([[Trung Quốc]]): ''Tây Hớn (Hán), Đông Hớn, Chung Vô Diệm, [[Tam Quốc chí]], Ngũ hổ bình Tây, [[Nhạc Phi]], Thập nhi quả phụ chinh Tây, [[Càn Long]] du [[Giang Nam]], Anh hùng náo tam môn giai, Tái sanh duyên,''...
Ngoài ra, ông còn viết một số truyện ngắn đăng trên báo ''Le Moniteur de province'', dịch nhiều truyện Tàu, phiên âm một số sách [[chữ Nôm]], và biên soạn sách giáo khoa "Huấn từ cách ngôn" dùng cho các trường sơ học.
 
Ngoài ra, ông còn dịch ''Tam tự kinh, Huấn tử cách ngôn'', viết một số truyện ngắn đăng trên báo ''Le Moniteur de province'', dịch nhiều truyện Tàu, phiên âm một số sách [[chữ Nôm]], và biên soạn sách giáo khoa "Huấn từ cách ngôn" dùng cho các trường sơ học...
 
Ngày nay, một số tiểu thuyết của ông vẫn còn được tái bản.
 
==Nhận xét==
Phần lớn, truyện của Nguyễn Chánh Sắt đều không dài. Vốn là người có vốn Hán học sâu rộng, lại quen dịch truyện Tàu nên sáng tác của ông, chịu ảnh hưởng khá rõ thể loại này, như kết cấu theo hình thức chương hồi, câu văn còn nặng tính biền ngẫu, tính đạo lý (đề tài nghĩa hiệp, trung hiếu) đóng vai trò chủ đạo. Dù vậy, Nguyễn Chánh Sắt vẫn là một ''nhà văn Nam Bộ nổi bật, có công thúc đẩy thể loại tiểu thuyết ở thời kì phôi thai tiến lên một bước.''<ref>Theo web bachkhoatoanthu [http://www.bachkhoatoanthu.gov.vn/docstore.aspx?param=A130aWQ9MDAwNDA2NDg=]</ref>.
 
==Chú thích==
{{reflist}}
<references/>
==Sách tham khảo==
*Nguyễn Kiểm và Huỳnh Minh, ''Tân Châu xưa''. Nhà xuất bản Thanh Niên, 2003.
*Nguyễn Huệ Chi, mục từ ''Nguyễn Chánh Sắt'' trong ''Từ điển văn học'' (bộ mới), Nhà xuất bản Thế giới, 2004.
Nguyễn Q. Thắng-Nguyễn Bá Thế, ''Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam''. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 1992.
*Nhiều người soạn, ''Địa chí An Giang'' (Tập 2), phần ''Văn học Quốc ngữ''. UBND tỉnh An Giang tổ chức biên soạn và ấn hành năm 2007.
 
==Liên kết ngoài==
:*[http://chimviet.free.fr/vanhoc/phuctrun/phul052c.htm Nguyễn Chánh Sắt] Trên web Chim Việt.
:*[http://www.bachkhoatoanthu.gov.vn/docstore.aspx?param=A130aWQ9MDAwNDA2NDg= Nguyễn Chánh Sắt] Trên web Từ điển Bách khoa.
{{NavigationBox
|Title =Một số nhân vật lịch sử liên quan đến [[An Giang]]
|Color =#E6E6FA
|Image =[[Tập tin:Chân dung Nguyễn Hữu Cảnh.jpg|50px]]
|List =[[Nguyễn Hữu Cảnh]]&nbsp;• [[Thoại Ngọc Hầu]]&nbsp;• [[Nguyễn Văn Tuyên]]&nbsp;• [[Đoàn Minh Huyên]]&nbsp;• [[Trần Văn Thành]]&nbsp;• [[Ngô Lợi]]&nbsp;• [[Phật Trùm]]&nbsp;• [[Trần Hữu Thường]]&nbsp;• [[Nguyễn Chánh Sắt]]&nbsp;• [[Đạo Tưởng]]...
|Category =
|Summary =
}}
 
[[Thể loại:Người An Giang]]
[[Thể loại:Nhà văn Việt Nam]]
[[Thể loại:Nhà báo Việt Nam]]
[[Thể loại:Nhà giáo Việt Nam]]
[[Thể loại:Dịch giả Việt Nam]]
{{Thời gian sống|sinh=1869|mất=1947}}
 
[[en:Nguyen Chanh Sat]]