Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Thượng tọa bộ”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n Thusinhviet đã đổi Thượng tọa bộ Phật giáo thành Phật giáo Thượng tọa bộ: thuận tai hơn
n stub sorting, replaced: London → Luân Đôn (3), India → Ấn Độ (2) using AWB
Dòng 34:
Theravadin (tín đồ Thượng tọa bộ) theo những thông tin có nguồn gốc riêng của mình kể rằng điều đó đã nhận lấy những sự giáo huấn được tán thành vào lúc trong [[Đại hội kết tập kinh điển Phật giáo lần thứ ba]] dưới sự bảo trợ của Hoàng đế Ấn Độ là [[A-dục vương]], khoảng năm 250 TCN. Những lời giáo huấn này được biết đến là Phân Biệt Thuyết bộ.<ref>Hirakawa Akira (dịch và biên tập bởi Paul Groner), ''Lịch sử Phật giáo Ấn Độ'', Motilal Banarsidass Publishers, Delhi, 1993, trang 109.</ref> Những giáo đồ Phân Biệt Thuyết bộ đều lần lược chia tách ra bốn nhóm: [[Hóa Địa bộ]] (Mahīśāsaka), [[Ẩm Quang bộ]] (Kāśyapīya), [[Pháp Tạng bộ]] (Dharmaguptaka), và Đồng Diệp bộ (Tāmraparṇīya).
 
Thượng tọa bộ còn thấy đến ngày nay thực chất là phái Đồng Diệp bộ, đó có nghĩa "Dòng dõi người Sri Lanka." Vào thế kỷ thứ VII SCN, các du tăng Trung Quốc là sư [[Huyền Trang]] và [[Nghĩa Tịnh]] có nhắc đến các trường phái Phật giáo ở Sri Lanka là ''Shàngzuòbù'' (上座部, Thượng tọa bộ), tương ứng với tiếng Sanskrit là "Sthavira Nikāya" và tiếng Pali là "Thera Nikāya."{{refn|group=lower-alpha|Huyền Trang đã đề cập đến các vị Phật tử ở Sri Lanka rằng "Họ chủ yếu làm theo lời dạy của Đức Phật, đi theo giáo pháp của trường phái Sthavira (Thượng tọa bộ)".<ref>Samuel Beal, "Si-Yu-Ki&nbsp;— Hồ sơ về đạo Phật của thế giới Tây Phương (Buddhist Records of the Western World)&nbsp;— Dịch ra từ trước tác của Huyền Trang năm 629", do Tuebner và Co xuất bản, LondonLuân Đôn (1884), in tại Tổng công ty nhà sách Phương Đông, New Delhi, (1983), Phiên bản kỹ thuật số: Viện Phật học Trung Hoa, Đài Bắc.</ref>}}{{refn|group=lower-alpha|Nghĩa Tịnh có đề cập đến tình hình ở Sri Lanka rằng "Ở Tích Lan, trường phái Thượng tọa bộ được độc tôn; những người Đại Chúng bộ thì bị trục xuất"<ref>Samuel Beal, "Cuộc đời của Huyền Trang: bởi Shaman Hwui Li. Cùng với lời giới thiệu gồm có thông tin về tác phẩm của Nghĩa Tịnh", được xuất bản bởi Tuebner và Co, LondonLuân Đôn (1911), Phiên bản kỹ thuật số: Trường Đại học Michigan.</ref>}}. Trường phái này đã sử dụng chính cái tên ''Theravāda'' dưới dạng văn bản ít nhất từ thế kỷ thứ IV, thuật ngữ này được xuất hiện trong ''[[Đảo sử]] (Dīpavaṁsa)''.{{refn|group=lower-alpha|Nó được sử dụng trong các sách Đảo Sử (trích dẫn trong ''Lời dẫn giải tranh luận'' (Debates Commentary), Pali Text society, trang 4), mà thường thì thời gian ở thế kỷ IV.}}
 
===Phân nhánh phái Thượng tọa bộ===
Dòng 44:
* [[Pháp Thượng bộ]] (''Dharmottariyàh''),
* [[Hiền trú bộ]] (''Dhadrayàniyàh''),
* [[Mật lâm sơn bộ]] (''Sandagirikàh'').<ref name="Phần 2 p 2">Phần 2: Lịch sử Phật giáo, Phật học cơ bản - tập 2.</ref>
 
Khoảng 200 năm sau khi Phật qua đời (tức khoảng thế kỷ III TCN), một nhánh nữa tách khỏi Thượng tọa bộ, đó là [[Thuyết nhất thiết hữu bộ]] (''Saivàstivàdàh''), gọi tắt là Hữu bộ, cũng có tên khác là Thuyết nhân bộ (''Hetuvàdàh'') do [[Katyayaniputra]] sáng lập. Hữu bộ trở thành một tông phái nổi tiếng vào bậc nhất nhờ lý thuyết: Tam thế thật hữu, pháp thể hằng hữu. Lúc này, Thượng tọa bộ gốc được gọi là [[Phân Biệt Thuyết Bộ]] (''Vibhajyavāda''). Về sau vua Asoka ủng hộ Phân Biệt Thuyết bộ hơn, nên Hữu bộ di cư lên Himalaya (Tuyết Sơn) và lập ra các trung tâm ở [[Kashmir]], [[Gandhara]] và [[Mathura]].<ref name="Thích Nhất Hạnh, sđd">Thích Nhất Hạnh, sđd.</ref>
 
Sau này, [[Kinh lượng bộ]] lại tách ra từ Hữu bộ.<ref> name="Phần 2: Lịch sử Phật giáo, Phật học cơ bản - tậpp 2.<"/ref>
 
Trong khi đó, Phân Biệt Thuyết bộ lại tách thành [[Đồng Diệp bộ]] (''Tamrasātiya'') và [[Hóa Địa bộ]] (''Mahīsasāka''). Đồng Diệp bộ được [[Ma-hi-đà]], con vua Asoka, mang tới [[Srilanka]].<ref> name="Thích Nhất Hạnh, sđd.<"/ref>
 
===Truyền đến Sri Lanka và biến đổi===
Dòng 58:
Theo như biên niên sử [[Pali]] truyền thống của [[người Sinhala]], Phật giáo lần đầu tiên được đưa đến Sri Lanka bởi [[Ma-hi-đà]] (Mahinda), người được cho là con trai của đức vua [[A-dục vương|Asoka]] của [[Đế quốc Maurya]], ở thế kỷ thứ III TCN trong khuôn khổ phong trào ''dhammaduta'' (người truyền giáo). Ở Sri Lanka, Ma-hi-đà đã thuyết phục được vua Devanampiya-tissa theo đạo Phật. Nhà vua cho dựng chùa [[Mahavihara]] ở [[Anuradhapura]], kinh đô Sri Lanka thời đó. Sau này, em gái Ma-hi-đà mang xá lị Phật và chồi cây bồ-đề tới trồng ở chùa này, càng làm cho uy tín của Phật giáo và của chùa Mahavihara tăng cao.<ref>Hoàng Phong, ''[https://thuvienhoasen.org/p21a18625/11/tim-hieu-phat-giao-theravada-bai-3 Lịch sử phát triển của Phật giáo Theravada]''.</ref>
 
Khoảng đầu thế kỷ II TCN, cao tăng [[Mahâtissa]] có công giúp vua Sri Lanka [[Vattagâmani]] đánh đuổi [[Chola|quân Tamil]] từ [[Nam Ấn Độ]] tới xâm lược. Nhà vua đền ơn vị cao tăng này bằng cách xây chùa [[Abhayagirivihâra]] còn lớn hơn cả chùa Mahavihara và cho vị cao tăng này trụ trì. Vì nguyên nhân này, Mahâtissa bị tăng đoàn Mahavihara trục xuất, và tự lập tăng đoàn riêng là Dhammaruciya. Do áp lực của Dhammaruciya, chùa Mahavihara bị vua cho phá hủy khiến tăng đoàn phải xây lại. Biến cố này cùng với nguy cơ thường trực bị quân Tamil xâm lược đã thúc đẩy các nhà sư chùa Mahavihara ghi lại kinh Phật trên lá bối bằng tiếng Pali.<ref name="Hoàng Phong, sđd">Hoàng Phong, sđd.</ref> Từ đây, kinh Pali được truyền đi các xứ khác.
 
Theo như A.K. Warder, phái Hóa Địa bộ Ấn Độ cũng đã tự thành lập ở Sri Lanka cùng với phái Theravāda, và chúng được tiếp thụ sau này.<ref name="Warder, A.K. 2000. p. 280"/> Khu vực phía bắc của Sri Lanka dường như cũng đã nhường lại cho các thể phái từ Ấn Độ trong thời gian nhất định.<ref name="Warder, A.K. 2000. p. 280"/> Tăng đoàn Dhammaruciya ở chùa Abhayagirivihâra giữ vị trí chủ đạo do được triều đình coi trọng hơn. Về sau họ ít nhiều tiếp thu các tư tưởng Đại thừa - điều này được sư Trung Quốc [[Huyền Trang]] ghi nhận.<ref> name="Hoàng Phong, sđd.<"/ref>
 
[[Hình:Dambulla 16.jpg|nhỏ|Đức Phật sơn vẽ ở [[chùa hang Dambulla]] tại [[Sri Lanka]]. Chùa hang Phật giáo phức tạp được thành lập như một tu viện Phật giáo ở thế kỷ III TCN. Các hang được chuyển đổi thành chùa chiền trong thế kỷ I TCN.<ref>{{chú thích web|url=http://whc.unesco.org/en/list/561 |title=Golden Temple of Dambulla - UNESCO World Heritage Centre |publisher=Whc.unesco.org |date= |accessdate=ngày 17 tháng 8 năm 2012}}</ref>]]
Dòng 80:
Trong thế kỷ thứ VIII, được biết rằng cả Đại Thừa và phái Mật tông [[Kim cương thừa]] (Vajrayāna) - hình thức của đạo Phật đã được thực hành ở Sri Lanka, và hai nhà sư Ấn Độ có trách nhiệm truyền bá Phật giáo Bí Truyền tại Trung Quốc là [[Kim Cương Trí]] (Vajrabodhi) và [[Bất Không Kim Cương]] (Amoghavajra), đã từng đến thăm hòn đảo trong suốt thời gian này.<ref>Hirakawa, Akira. Groner, Paul. ''Lịch sử Phật giáo Ấn Độ: Từ Đức Thích Ca Mâu Ni đến đầu thời Đại Thừa.'' 2007. tr. 125-126</ref> Tinh xá Abhayagiri có vẻ như là nơi trung tâm gộp những giáo lý của Thượng tọa bộ, Đại Thừa và Kim Cương Thừa.<ref>"Phật giáo Bí Truyền ở Đông Nam Á theo Ánh Sáng Uyên Triết gần đây" bởi Hiram Woodward. ''Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á'', Vol. 35, No. 2 (Jun., 2004), tr. 341</ref>
 
Thượng tọa bộ truyền đến [[Suvarnabhumi]] ở Đông Nam Á và phổ biến ở [[Các quốc gia Môn ở Myanma|Thaton]], quốc gia của [[người Môn]] ở miền Nam [[Myanmar]] ngày nay. Phật giáo của Thaton dùng kinh bằng tiếng Pali, nhưng hình thức thì có pha trộn với một số đường nét tiêu biểu của Phật giáo Đại thừa và Kim Cương thừa.<ref> name="Hoàng Phong, sđd.<"/ref> Phật giáo từ Thaton đã lan truyền sang các xứ khác ở Đông Nam Á.
 
===Lan đến Đông Nam Á===
[[Hình:Bagan, Burma.jpg|nhỏ|trái|Tàn tích của [[Bagan]], cố đô của [[Miến Điện]]. Hiện có hơn 2000 ngôi chùa Phật giáo. Trong thời đỉnh cao quyền lực của Bagan có đến 13'000 ngôi chùa.<ref group=web>{{chú thích web|url=http://www.asiaexplorers.com/myanmar/bagan_travel_guide.htm |title=Plan your trip to Bagan (Pagan), Myanmar |publisher=AsiaExplorers |date=ngày 25 tháng 11 năm 2003 |accessdate=ngày 17 tháng 8 năm 2012}}</ref>]]
 
Thượng tọa bộ truyền đến xứ Suvarnabhumi của người Môn ở Đông Nam Á trước. Vua Anawrahta của triều Pagan ở Miến Điện sau khi thôn tính xứ của người Môn ở miền Nam nước này đã tiếp thu Thượng tọa bộ làm quốc giáo. Giữa Pagan và Sri Lanka có mối quan hệ mật thiết liên quan đến tôn giáo. Pagan gửi kinh và người đến giúp Sri Lanka khôi phục Phật giáo sau họa xâm lược và hủy diệt của Tamil. Còn Sri Lanka gửi tặng Pagan xá lị Phật, làm cho uy tín Thượng tọa bộ được nâng cao ở Pagan. Phật giáo ở Pagan vì vậy ngày càng chịu ảnh hưởng của Thượng tọa bộ từ Sri Lanka. Đến thế kỷ XIII, sư Capata thậm chí còn đề nghị phải loại bỏ các truyền thống tu hành của Phật giáo Thaton để hoàn toàn theo truyền thống của chùa Mahâvihâra ở Sri Lanka. Trong nỗ lực tái thiết đất nước sau khi quân Mông Cổ rút đi, các vua Miến Điện đã gửi các nhà sư sang Sri Lanka học tập. Sri Lanka lúc này đã lấy Thượng tọa bộ phái Mahâvihâra làm quốc giáo. Trở về nước, các nhà sư nói trên đã tiếp tục củng cố truyền thống Thượng tọa bộ Mahâvihâra ở Miến Điện. Myanmar trở thành trung tâm bảo tồn Thượng tọa bộ chủ yếu cùng với Sri Lanka.<ref> name="Hoàng Phong, sđd.<"/ref>
 
Trong khi đó, các xứ khác ở Đông Nam Á tiếp tục truyền thống Phật giáo Thượng tọa bộ của người Môn từ Thaton.
Dòng 193:
* {{Citation | last =Chapman | first =David | year =2011 | title =Theravāda reinvents meditation | url =http://en.wikipedia.org/wiki/Special:ArticleFeedbackv5Watchlist?ref=watchlist }}
* {{Citation | last =Dutt | first =Nalinaksha | year =1998 | title =Buddhist Sects in India | place =Delhi | publisher =Motilal Banarsidass Publishers Private Limited}}
* {{Citation | last =Gombrich | first =Richard F. | year =1996 | title =Theravāda Buddhism. A Social History from Ancient Benares to Modern Colombo | place =LondonLuân andĐôn và New York | publisher =Routledge}}
* {{Citation | last =Gomez | first =Luis O. | year =1991 | title = Purifying Gold: The Metaphor of Effort and Intuition in Buddhist Thought and Practice. In: Peter N. Gregory (editor)(1991), ''Sudden and Gradual. Approaches to Enlightenment in Chinese Thought'' | place =Delhi | publisher =Motilal Banarsidass Publishers Private Limited}}
* {{Citation | last =Gunaratana | first =Henepola | year =1994 | title =The Path of Serenity and Insight | place =Delhi | publisher =Motilal Banarsidass Publishers Private Limited}}