Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Bắc Kỳ”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Uoat365 (thảo luận | đóng góp)
Không có tóm lược sửa đổi
Uoat365 (thảo luận | đóng góp)
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 39:
'''Bắc Kỳ'''<ref>Hữu Ngọc “Wandering through Vietnamese Culture”. Thé̂ giới publishers, 2004, reprinted April 2006 & 2008, 1 124 pp. ISBN 90-78239-01-8</ref><ref>Forbes, Andrew, and Henley, David: ''Vietnam Past and Present: The North'' (History and culture of Hanoi and Tonkin). Chiang Mai. Cognoscenti Books, 2012. ASIN: B006DCCM9Q.</ref> ([[chữ Hán]]: 北圻) là [[địa danh]] do vua [[Minh Mệnh]] ấn định vào năm [[1834]] để mô tả [[lãnh địa]] từ tỉnh [[Ninh Bình]] trở ra cực Bắc [[Đại Nam]], thay cho [[địa danh]] [[Bắc Thành]] đã tỏ ra kém phù hợp.
 
Trong thời kỳ [[Pháp thuộc|Pháp thôn tính Việt Nam]], theo chính sách "[[chia để trị]]", Việt Nam bị chia cắt thành 3 xứ riêng biệt: xứ thuộc địa Nam Kỳ và hai xứ bảo hộ Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Danh xưng Bắc Kỳ được [[chính quyền]] [[Liên bang Đông Dương]] của Pháp duy trì cho đến năm 1945. Trong các văn bản hành chính hoặc báo chí hiện nay, cách goi "Bắc Kỳ, Nam Kỳ" bị cấm sử dụng do mang tính phân biệt, gây chia rẽ vùng miền (trừ khi nói về sự kiện hoặc địa danh lịch sử),. tuy nhiên danh xưng này đôi khi được người miền Nam dùng để gọi những người có gốc gác từ [[miền Bắc Việt Nam]].
 
Hiện nay, danh xưng này đôi khi được người miền Nam dùng để gọi những người di cư có gốc gác từ [[miền Bắc Việt Nam]], tuy nhiên cách gọi này có phần không chính xác về lịch sử, vì tất cả người Kinh ở miền Nam Việt Nam vốn đều có tổ tiên là người miền Bắc Việt Nam, chỉ mới di cư vào Nam Bộ từ thời [[chúa Nguyễn]] (khoảng thế kỷ 17-18).
 
==Địa danh Tonkin==