Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Bùi Quang Dũng”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Quynhbm (thảo luận | đóng góp)
Dòng 13:
Năm Đinh Mão (967), biết [[Đinh Bộ Lĩnh]] là người cương trực, mưu lược và chí lớn, ông đã tìm đến và ra mắt [[Đinh Bộ Lĩnh]], lúc đó ông đã 45 tuổi. Ông đã đem tài năng của mình, cùng với [[Nguyễn Bặc]], Đinh Điền, Lưu Cơ, Trịnh Tú... dốc lòng phò tá [[nhà Đinh]], thống nhất đất nước, lập nên triều đại [[nhà Đinh]]. [[Đinh Bộ Lĩnh]] lên ngôi hoàng đế, lấy hiệu là [[Đinh Tiên Hoàng]], đặt tên nước là [[Đại Cồ Việt]] đóng đô tại [[Hoa Lư]] ([[Ninh Bình]] ngày nay)
 
Năm Mậu Thìn (968), Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi, ban thưởng tướng sĩ, phong ông là Anh Dực tướng quân, sung Điện tiền Đô chỉ huy sứ kiêm Thiêm sự. Năm 971, ở vùng Kỳ Bố, Ngô Văn Kháng nổi loạn, triều đình cử quân đánh dẹp nhưng thất bại. Vua cử Bùi Quang Dũng cầm quân. Bằng uy đức của mình, ông đã dụ hàng Ngô Văn Kháng. Vua Đinh phong ông là Trấn Đông Tiết độ sứ, Tổng thống kiêm lý ba đạo, được đóng quân ở thành Kỳ Bố; sau lại thăng Đặc khai quốc Thiên sách Thượng tướng, tước An Tĩnh hầu và truy tặng thân phụ ông là Khải Tá hầu.
Năm 971 ông được vua phong Trấn đông Tiết độ sứ, chỉ huy 3 đạo quân thuộc vùng Đông Đạo (lúc đó [[nhà Đinh]] có tất cả 10 đạo quân) về xứ Kỳ Bố, [[Hải Khẩu]] (thuộc tỉnh Thái Bình ngày nay) dẹp loạn.
 
Bùi Quang Dũng khai khẩn đất hoang ở ven sông Lãng Bạc và sông Cái (sông Trà Lý ngày nay), biến vùng đất hoang vu thành làng xóm đông vui, đồng ruộng tươi tốt. Đất ông được vua ban gọi là ấp Hàm Châu. Ngoài Hàm Châu, ông lập ra 8 trại khác (nay thuộc địa bàn huyện Vũ Thư và TP Thái Bình). Cảm tạ công lao của ông, dân các làng đều đặt tên làng mình là Bùi Xá.
 
{{sơ khai}}
11

lần sửa đổi