Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Ki no Tomonori”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 11:
! '''Diễn ý:'''
|-
|ひさかたの
光のどけき
春の日に
静心なく
花の散るらむ
|
Hisakata no
Hikari nodokeki
Haru no hi ni
Shizugokoro naku
Hana no chiru ramu
Ka ni nioi keru
|Trong nắng xuân êm đềm,
Là lúc lòng lặng yên.
Bồn chồn chi hoa hỡi,
Mà đã rụng trăm miền!
:::(ngũ ngôn)
:
Cớ chi tan tác nỗi niềm bấy hoa!
:::(lục bát)
|Trong một ngày nắng xuân ấm áp như thế này,
Để rơi rụng tan tác khắp nơi như thế,
Hỡi những đóa hoa anh đào!
|}
=== Xuất xứ ===
{{nihongo|''[[Kokin Wakashū]]''||Cổ Kim Tập}},
=== Hoàn cảnh sáng tác ===
Theo lời thuyết minh của Kokin Wakashū, bài thơ này vịnh cảnh hoa anh đào rơi tan tác.
=== Đề tài ===
Trong khi còn đang đẹp rực rỡ đã rơi tan tác, kiếp hoa anh đào sao mà ngắn ngủi.
Ngày xuân êm đềm (xuân nhật trì trì), cớ sao hoa anh đào vội vã gì mà đã muốn ra đi. Đó là đối chọi giữa tĩnh có động vậy. Tả cảnh hoa đẹp để mà tiếc hoa.
Hisakata no là chữ gối đầu (makura-kotoba) khi nói về mưa, trăng mây, bầu trời, ánh sáng, đêm, kinh đô. Chữ ni (lúc) trong câu thứ ba có thuyết nói phải hiểu là na no ni (thế mà lại) cho nên thay vì hiểu haru no hi ni là “giữa ngày xuân”, có thể hiểu “đang giữa ngày xuân thế mà lại...”. Âm hưởng của chuổi âm vần はha (hisakata, hikari, haru, hana) nối tiếp nhau và những âm の (no) tạo nên một cảm giác trầm lắng.
Kỹ thuật nhân cách hóa giữa hoa và người cũng được sử dụng trong bài.
==Tham khảo==
|