Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Hoàng đế”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n Đã lùi lại sửa đổi của Mai Trần Bảo Anh (Thảo luận) quay về phiên bản cuối của Collector143
Thẻ: Lùi tất cả
Dòng 105:
==Hoàng đế ở Tây Âu==
===Pháp===
Các vị vua của ''[[Ancien Régime]]'' và chế độ [[quân chủ tháng Bảy|quân chủ Tháng bảy]] sử dụng xưng là "Hoàng đế nước Pháp" (''Empereur de France'') trong thư ngoại giao và các điều ước quốc tế với các Hoàng đế [[Đế quốc Ottoman|Ottoman]] ít nhất là từ năm [[1673]] trở đi. Các Hoàng đế Ottoman khẳng định danh hiệu này trong khi không chịu thừa nhận các [[hoàng đế La Mã Thần thánh]] hoặc các [[Sa hoàng|Nga hoàng]] vì họ đòi quyền thừa kế [[translatio imperii|Đế quốc La Mã]]. Nói tóm lại, đây là một sự lăng mạ gián tiếp của người Thổ đối với các Hoàng đế La Mã Thần thánh và [[người Nga]]. Các vua Pháp cũng xưng là "Hoàng đế nước Pháp" trong các công văn tới [[Maroc]] ([[1682]]) và [[Iran|Ba Tư]] ([[1715]]).
 
= Các vị vua của ''[[Ancien Régime]]'' và chế độ [[quân chủ tháng Bảy|quân chủ Tháng bảy]] sử dụng xưng là "Hoàng đế nước Pháp" (''Empereur de France'') trong thư ngoại giao và các điều ước quốc tế với các Hoàng đế [[Đế quốc Ottoman|Ottoman]] ít nhất là từ năm [[1673]] trở đi. Các Hoàng đế Ottoman khẳng định danh hiệu này trong khi không chịu thừa nhận các [[hoàng đế La Mã Thần thánh]] hoặc các [[Sa hoàng|Nga hoàng]] vì họ đòi quyền thừa kế [[translatio imperii|Đế quốc La Mã]]. Nói tóm lại, đây là một sự lăng mạ gián tiếp của người Thổ đối với các Hoàng đế La Mã Thần thánh và [[người Nga]]. Các vua Pháp cũng xưng là "Hoàng đế nước Pháp" trong các công văn tới [[Maroc]] ([[1682]]) và [[Iran|Ba Tư]] ([[1715]]). =
 
====Đế chế Pháp thứ nhất====
{{xem thêm|Đế chế thứ nhất}}
[[Hình:Jacques-Louis David, The Coronation of Napoleon edit.jpg|nhỏ|350px|Một trong các nghi lễ đăng quang Hoàng gia nổi tiếng nhất là của Napoleon, tự phong Hoàng đế trong sự hiện diện của [[Giáo hoàng Piô VII]] (người đã ban phước cho [[biểu chương của vua]]) tại [[Nhà thờ Đức Bà Paris|nhà thờ Notre Dame ở Paris]].<br>Vẽ bởi [[Jacques-Louis David|David]] nhằm kỷ niệm một sự kiện khác cũng không kém phần nổi tiếng: nhà thờ chính kiểu gothic được thiết kế lại theo kiểu ''[[Đế chế (phong cách)|phong cách Đế chế]]'', giám sát bởi [[Letizia Ramolino|mẹ của Hoàng đế]] trên ban công (một bổ sung hư cấu, khi mà bà không có mặt tại buổi lễ), vị trí của Đức giáo hoàng gần bàn thờ, Napoleon tiến hành trao vương miện cho mình rồi vợ, [[Joséphine de Beauharnais]] như Hoàng hậu.]]
[[Napoléon Bonaparte]], người từng là Đệ nhất Tổng tài của Đệ nhất Cộng hoà Pháp (''Premier Consul de la République française'') suốt đời đã tuyên bố mình là [[Hoàng đế của người Pháp]] (Empereur des Français) vào ngày [[18 tháng 5]] năm [[1804]] do đó tạo ra [[Đế chế thứ nhất|Đế chế của người Pháp]] (Empire des Français).
 
Napoléon từ bỏ danh hiệu Hoàng đế của người Pháp vào ngày [[6 tháng 4]] và một lần nữa vào ngày [[11 tháng 4]] năm [[1814]]. Con trai trẻ của Napoleon, [[Napoléon II]] được công nhận bởi Hội đồng của Peers, như Hoàng đế từ thời điểm sự thoái vị của cha mình và do đó trị vì là Hoàng đế 15 ngày, kể từ ngày [[22 tháng 6]] đến ngày [[7 tháng 7]] năm [[1815]].
= [[Napoléon Bonaparte]], người từng là Đệ nhất Tổng tài của Đệ nhất Cộng hoà Pháp (''Premier Consul de la République française'') suốt đời đã tuyên bố mình là [[Hoàng đế của người Pháp]] (Empereur des Français) vào ngày [[18 tháng 5]] năm [[1804]] do đó tạo ra [[Đế chế thứ nhất|Đế chế của người Pháp]] (Empire des Français). =
 
= Napoléon từ bỏ danh hiệu Hoàng đế của người Pháp vào ngày [[6 tháng 4]] và một lần nữa vào ngày [[11 tháng 4]] năm [[1814]]. Con trai trẻ của Napoleon, [[Napoléon II]] được công nhận bởi Hội đồng của Peers, như Hoàng đế từ thời điểm sự thoái vị của cha mình và do đó trị vì là Hoàng đế 15 ngày, kể từ ngày [[22 tháng 6]] đến ngày [[7 tháng 7]] năm [[1815]]. =
 
====Elba====
Từ [[3 tháng 5]] năm [[1814]], chủ quyền của Elba đã tạo ra một chế độ quân chủ không cha truyền con nối thu nhỏ dưới sự lãnh đạo của Hoàng đế Pháp lưu vong Napoleon I. Napoleon I được cho phép giữ lại danh hiệu Hoàng đế theo các điều khoản của [[hiệp ước Fontainebleau]] ([[27 tháng 4]]). Quần đảo này không được thiết kế lại như một đế chế.
[[Hình:Jacques-Louis David, The Coronation of Napoleon edit.jpg|nhỏ|350px|Một trong các nghi lễ đăng quang Hoàng gia nổi tiếng nhất là của Napoleon, tự phong Hoàng đế trong sự hiện diện của [[Giáo hoàng Piô VII]] (người đã ban phước cho [[biểu chương của vua]]) tại [[Nhà thờ Đức Bà Paris|nhà thờ Notre Dame ở Paris]].<br>Vẽ bởi [[Jacques-Louis David|David]] nhằm kỷ niệm một sự kiện khác cũng không kém phần nổi tiếng: nhà thờ chính kiểu gothic được thiết kế lại theo kiểu ''[[Đế chế (phong cách)|phong cách Đế chế]]'', giám sát bởi [[Letizia Ramolino|mẹ của Hoàng đế]] trên ban công (một bổ sung hư cấu, khi mà bà không có mặt tại buổi lễ), vị trí của Đức giáo hoàng gần bàn thờ, Napoleon tiến hành trao vương miện cho mình rồi vợ, [[Joséphine de Beauharnais]] như Hoàng hậu.]]
 
Ngày [[26 tháng 2]] năm [[1815]], Napoleon rời Elba để tới Pháp và phục hồi đế quốc Pháp trong vòng [[chiến tranh Liên minh thứ bảy|100 Ngày]]; tuy nhiên cuộc chiến tranh của Napoléo thất bại, ông bị đuổi khỏi đảo Elba vào ngày [[25 tháng 3]] năm 1815 và, vào ngày [[31 tháng 3]] cùng năm, Elba đã được nhượng lại sự cho [[Đại Công quốc Tuscania]] theo các điều khoản của [[Đại hội Viên]]. Sau thất bại cuối cùng của mình, Napoleon được coi là một tướng bởi chính quyền Anh trong thời gian lưu vong thứ hai của ông đến đảo [[Saint Helena]] ở [[Đại Tây Dương]]. Danh hiệu của ông là một vấn đề tranh chấp với Thống đốc Saint Helena, người khăng khăng gọi ông là "Tướng Bonaparte", mặc dù trong "thực tế lịch sử ông đã là một hoàng đế" và do đó được giữ lại nó <ref>''Napoleon'', Vincent Cronin, p419, HarperCollins, 1994.</ref><ref>''Napoleon'', Frank McLynn, p644, Pimlico 1998</ref><ref>''Le Mémorial de Sainte Hélène'', Emmanuel De Las Cases, Tome III, page101, published by Jean De Bonnot, Libraire à l'enseigne du canon, 1969</ref>.
= Từ [[3 tháng 5]] năm [[1814]], chủ quyền của Elba đã tạo ra một chế độ quân chủ không cha truyền con nối thu nhỏ dưới sự lãnh đạo của Hoàng đế Pháp lưu vong Napoleon I. Napoleon I được cho phép giữ lại danh hiệu Hoàng đế theo các điều khoản của [[hiệp ước Fontainebleau]] ([[27 tháng 4]]). Quần đảo này không được thiết kế lại như một đế chế. =
 
= Ngày [[26 tháng 2]] năm [[1815]], Napoleon rời Elba để tới Pháp và phục hồi đế quốc Pháp trong vòng [[chiến tranh Liên minh thứ bảy|100 Ngày]]; tuy nhiên cuộc chiến tranh của Napoléo thất bại, ông bị đuổi khỏi đảo Elba vào ngày [[25 tháng 3]] năm 1815 và, vào ngày [[31 tháng 3]] cùng năm, Elba đã được nhượng lại sự cho [[Đại Công quốc Tuscania]] theo các điều khoản của [[Đại hội Viên]]. Sau thất bại cuối cùng của mình, Napoleon được coi là một tướng bởi chính quyền Anh trong thời gian lưu vong thứ hai của ông đến đảo [[Saint Helena]] ở [[Đại Tây Dương]]. Danh hiệu của ông là một vấn đề tranh chấp với Thống đốc Saint Helena, người khăng khăng gọi ông là "Tướng Bonaparte", mặc dù trong "thực tế lịch sử ông đã là một hoàng đế" và do đó được giữ lại nó <ref>''Napoleon'', Vincent Cronin, p419, HarperCollins, 1994.</ref><ref>''Napoleon'', Frank McLynn, p644, Pimlico 1998</ref><ref>''Le Mémorial de Sainte Hélène'', Emmanuel De Las Cases, Tome III, page101, published by Jean De Bonnot, Libraire à l'enseigne du canon, 1969</ref>. =
 
====Đế chế Pháp thứ hai====
{{xem thêm|Đế chế thứ hai}}
Cháu trai của Napoléon I, [[Napoléon III]], làm sống lại danh hiệu hoàng đế ngày [[2 tháng 12]] năm [[1852]], sau khi thành lập [[Đế chế thứ hai]] trong một cuộc [[đảo chính]] [[tổng thống]], sau đó được phê duyệt bởi toàn dân đầu phiếu. Triều đại của ông được đánh dấu bằng các công trình công cộng quy mô lớn, phát triển các chính sách xã hội và sự mở rộng ảnh hưởng của Pháp trên toàn thế giới. Trong suốt triều đại của ông, ông cũng thiết lập về việc tạo ra các [[Đế quốc Mexico thứ hai]] (lãnh đạo bởi [[Maximilian I của Mexico|Maximilian I]], thành viên của [[Họ Habsburg|Nhà Habsburg]]), để lấy lại sự nắm giữ của Pháp ở [[châu Mỹ]] và để đạt được sự vĩ đại cho chủng tộc 'La Tinh' <ref>{{chú thích sách |url=http://books.google.com/books?id=S1O6HwzwQs4C&pg=PA88&lpg=PA88&dq=Napoleon+III+Mexico+Latin+race#v=onepage&q=Napoleon%20III%20Mexico%20Latin%20race&f=false |title=Race and nation in modern Latin America |first1=Nancy P. |last1=Appelbaum |first2=Anne S. |last2=Macpherson |first3=Karin Alejandra |last3=Rosemblatt |publisher=UNC Press Books |year=2003 |isbn=9780807854419 |page=88}}</ref>. Napoleon III bị lật đổ vào ngày [[4 tháng 9]] năm [[1870]] sau khi khi Pháp bị đánh bại trong [[Chiến tranh Pháp-Phổ]]. [[Cộng hòa Pháp thứ ba|Cộng hòa thứ Ba]] theo sau ông và sau cái chết của con trai Napoleon (IV) vào năm [[1879]] trong [[Chiến tranh Zulu]], phong trào chia cắt của Bonapartist và Cộng hòa thứ ba kéo dài đến năm [[1940]].
 
= Cháu trai của Napoléon I, [[Napoléon III]], làm sống lại danh hiệu hoàng đế ngày [[2 tháng 12]] năm [[1852]], sau khi thành lập [[Đế chế thứ hai]] trong một cuộc [[đảo chính]] [[tổng thống]], sau đó được phê duyệt bởi toàn dân đầu phiếu. Triều đại của ông được đánh dấu bằng các công trình công cộng quy mô lớn, phát triển các chính sách xã hội và sự mở rộng ảnh hưởng của Pháp trên toàn thế giới. Trong suốt triều đại của ông, ông cũng thiết lập về việc tạo ra các [[Đế quốc Mexico thứ hai]] (lãnh đạo bởi [[Maximilian I của Mexico|Maximilian I]], thành viên của [[Họ Habsburg|Nhà Habsburg]]), để lấy lại sự nắm giữ của Pháp ở [[châu Mỹ]] và để đạt được sự vĩ đại cho chủng tộc 'La Tinh' <ref>{{chú thích sách |url=http://books.google.com/books?id=S1O6HwzwQs4C&pg=PA88&lpg=PA88&dq=Napoleon+III+Mexico+Latin+race#v=onepage&q=Napoleon%20III%20Mexico%20Latin%20race&f=false |title=Race and nation in modern Latin America |first1=Nancy P. |last1=Appelbaum |first2=Anne S. |last2=Macpherson |first3=Karin Alejandra |last3=Rosemblatt |publisher=UNC Press Books |year=2003 |isbn=9780807854419 |page=88}}</ref>. Napoleon III bị lật đổ vào ngày [[4 tháng 9]] năm [[1870]] sau khi khi Pháp bị đánh bại trong [[Chiến tranh Pháp-Phổ]]. [[Cộng hòa Pháp thứ ba|Cộng hòa thứ Ba]] theo sau ông và sau cái chết của con trai Napoleon (IV) vào năm [[1879]] trong [[Chiến tranh Zulu]], phong trào chia cắt của Bonapartist và Cộng hòa thứ ba kéo dài đến năm [[1940]]. =
 
===Bán đảo Iberia===
Nguồn gốc của danh hiệu ''[[Imperator totius Hispaniae]]'' ([[latinh|tiếng La Tinh]] cho ''Hoàng đế của toàn [[Hispania|Tây Ban Nha]]'' <ref>Notice that, before the emergence of the modern country of Spain (beginning with the union of [[Crown of Castile|Castile]] và [[Aragon]] in 1492), the [[Latinh|Latin]] word ''[[Hispania]]'', in any of the [[Iberian Romance languages]], either in singular or plural forms (in English: Spain or Spains), was used to refer to the whole of the Iberian Peninsula, and not exclusively, as in modern usage, to the country of Spain, thus excluding Portugal.</ref>) là không rõ ràng. Đó là liên quan với [[chế độ quân chủ Leon]] có thể lùi xa đến [[Alfonso Đại đế]] ([[866]]-[[910]]). Hai vị vua cuối cùng của [[triều Pérez]] được gọi là hoàng đế trong một nguồn đương đại.
 
Vua [[Sancho III của Navarre]] chinh phục [[Leon]] năm [[1034]] và bắt đầu sử dụng nó. Con trai ông, [[Ferdinand I của Castile]] lấy danh hiệu năm [[1039]]. Con trai của Ferdinand, [[Alfonso VI của Castile]] lấy danh hiệu năm [[1077]]. Sau đó nó được truyền cho con của ông, [[Alfonso I của Aragon]] năm [[1109]]. Con trai riêng của ông và cháu trai của Alfonso VI, [[Alfonso VII của Castile|Alfonso VII]] là người duy nhất đã thực sự có một lễ đăng quang hoàng đế trong năm [[1135]].
= Nguồn gốc của danh hiệu ''[[Imperator totius Hispaniae]]'' ([[latinh|tiếng La Tinh]] cho ''Hoàng đế của toàn [[Hispania|Tây Ban Nha]]'' <ref>Notice that, before the emergence of the modern country of Spain (beginning with the union of [[Crown of Castile|Castile]] và [[Aragon]] in 1492), the [[Latinh|Latin]] word ''[[Hispania]]'', in any of the [[Iberian Romance languages]], either in singular or plural forms (in English: Spain or Spains), was used to refer to the whole of the Iberian Peninsula, and not exclusively, as in modern usage, to the country of Spain, thus excluding Portugal.</ref>) là không rõ ràng. Đó là liên quan với [[chế độ quân chủ Leon]] có thể lùi xa đến [[Alfonso Đại đế]] ([[866]]-[[910]]). Hai vị vua cuối cùng của [[triều Pérez]] được gọi là hoàng đế trong một nguồn đương đại. =
 
Danh hiệu này không chính xác do di truyền nhưng tự được công bố bởi những người đã, toàn bộ hoặc một phần, thống nhất các tín đồ Kitô một phần phía bắc của [[bán đảo Iberia]], thường là bằng cách giết chết anh chị em ruột đối thủ. Các [[Giáo hoàng]] và [[hoàng đế La Mã Thần thánh]] phản đối việc sử dụng danh hiệu hoàng đế như một soán ngôi của lãnh đạo trong Kitô giáo phương Tây. Sau cái chết của Alfonso VII năm [[1157]], danh hiệu này bị bỏ rơi.
= Vua [[Sancho III của Navarre]] chinh phục [[Leon]] năm [[1034]] và bắt đầu sử dụng nó. Con trai ông, [[Ferdinand I của Castile]] lấy danh hiệu năm [[1039]]. Con trai của Ferdinand, [[Alfonso VI của Castile]] lấy danh hiệu năm [[1077]]. Sau đó nó được truyền cho con của ông, [[Alfonso I của Aragon]] năm [[1109]]. Con trai riêng của ông và cháu trai của Alfonso VI, [[Alfonso VII của Castile|Alfonso VII]] là người duy nhất đã thực sự có một lễ đăng quang hoàng đế trong năm [[1135]]. =
 
Sau sự sụp đổ của [[Đế quốc Đông La Mã]], người thừa kế hợp pháp ngai vàng, [[Andreas Palaiologos]], đã tuyên bố [[Ferdinand và Isabella]] là của mình vào năm [[1503]]. Tuyên bố này dường như đã bị lãng quên hoặc bị bỏ rơi lặng lẽ trong suốt 300 năm qua.
= Danh hiệu này không chính xác do di truyền nhưng tự được công bố bởi những người đã, toàn bộ hoặc một phần, thống nhất các tín đồ Kitô một phần phía bắc của [[bán đảo Iberia]], thường là bằng cách giết chết anh chị em ruột đối thủ. Các [[Giáo hoàng]] và [[hoàng đế La Mã Thần thánh]] phản đối việc sử dụng danh hiệu hoàng đế như một soán ngôi của lãnh đạo trong Kitô giáo phương Tây. Sau cái chết của Alfonso VII năm [[1157]], danh hiệu này bị bỏ rơi. =
 
= Sau sự sụp đổ của [[Đế quốc Đông La Mã]], người thừa kế hợp pháp ngai vàng, [[Andreas Palaiologos]], đã tuyên bố [[Ferdinand và Isabella]] là của mình vào năm [[1503]]. Tuyên bố này dường như đã bị lãng quên hoặc bị bỏ rơi lặng lẽ trong suốt 300 năm qua. =
 
===Anh===
{{chính|Hoàng đế Anh}}
Vào cuối [[thế kỷ 3]], vào cuối kỷ nguyên của các ''hoàng đế doanh trại'' tại [[Roma]], có 2 vị [[Danh sách các hoàng đế La Mã#Đế quốc Britannic 286 tới 297|hoàng đế Britannic]] trị vì khoảng một thập kỷ. Sau khi kết thúc sự cai trị của La Mã ở Anh, Imperator [[Cunedda]] giả mạo [[Vương quốc Gwynedd]] ở miền bắc xứ [[Wales]], nhưng tất cả các người kế nhiệm của ông đã có danh hiệu vua và hoàng tử.
 
= Vào cuối [[thế kỷ 3]], vào cuối kỷ nguyên của các ''hoàng đế doanh trại'' tại [[Roma]], có 2 vị [[Danh sách các hoàng đế La Mã#Đế quốc Britannic 286 tới 297|hoàng đế Britannic]] trị vì khoảng một thập kỷ. Sau khi kết thúc sự cai trị của La Mã ở Anh, Imperator [[Cunedda]] giả mạo [[Vương quốc Gwynedd]] ở miền bắc xứ [[Wales]], nhưng tất cả các người kế nhiệm của ông đã có danh hiệu vua và hoàng tử. =
 
====Anh====
Không có danh hiệu nào đặt ra cho nhà vua của nước Anh trước năm [[1066]] và [[chế độ quân chủ]] đã chọn phong cách cho riêng mình như là họ hài lòng. Các chức danh hoàng gia được sử dụng không thích hợp bắt đầu với [[Athelstan]] năm [[930]] và kết thúc với việc người [[Norman chinh phục nước Anh]]. [[Nữ hoàng Matilda]] ([[1102]]-[[1167]]) là vua Anh duy nhất thường được gọi là "hoàng đế" hay "Nữ hoàng", nhưng có được danh hiệu của mình thông qua cuộc hôn nhân của bà với [[Henry V, Hoàng đế La Mã thần thánh]] và có tính hợp pháp ít nhất là Nữ hoàng Anh.
 
Trong sự cai trị của [[Henry VIII của Anh|Henry VIII]], một Đạo luật của Quốc hội tuyên bố rằng lĩnh vực này của nước Anh là một đế quốc... lãnh đạo bởi Thủ trưởng tối cao và Vua có nhân phẩm và bất động sản hoàng gia của Hoàng đế. Do đó Anh bằng cách mở rộng là nhà nước hiện đại, kế thừa Liên hiệp [[Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland|Vương quốc Anh và Bắc Ireland]], thì trong thực tế nó là một đế quốc cai trị bởi một vị vua được ưu đãi với phẩm giá hoàng gia. Tuy nhiên, điều này đã không dẫn đến việc tạo ra các danh hiệu của Hoàng đế ở Anh hoặc ở chính Vương quốc Anh.
= Không có danh hiệu nào đặt ra cho nhà vua của nước Anh trước năm [[1066]] và [[chế độ quân chủ]] đã chọn phong cách cho riêng mình như là họ hài lòng. Các chức danh hoàng gia được sử dụng không thích hợp bắt đầu với [[Athelstan]] năm [[930]] và kết thúc với việc người [[Norman chinh phục nước Anh]]. [[Nữ hoàng Matilda]] ([[1102]]-[[1167]]) là vua Anh duy nhất thường được gọi là "hoàng đế" hay "Nữ hoàng", nhưng có được danh hiệu của mình thông qua cuộc hôn nhân của bà với [[Henry V, Hoàng đế La Mã thần thánh]] và có tính hợp pháp ít nhất là Nữ hoàng Anh. =
 
= Trong sự cai trị của [[Henry VIII của Anh|Henry VIII]], một Đạo luật của Quốc hội tuyên bố rằng lĩnh vực này của nước Anh là một đế quốc... lãnh đạo bởi Thủ trưởng tối cao và Vua có nhân phẩm và bất động sản hoàng gia của Hoàng đế. Do đó Anh bằng cách mở rộng là nhà nước hiện đại, kế thừa Liên hiệp [[Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland|Vương quốc Anh và Bắc Ireland]], thì trong thực tế nó là một đế quốc cai trị bởi một vị vua được ưu đãi với phẩm giá hoàng gia. Tuy nhiên, điều này đã không dẫn đến việc tạo ra các danh hiệu của Hoàng đế ở Anh hoặc ở chính Vương quốc Anh. =
 
====Vương quốc Anh====
[[Hình:George V of the united Kingdom.jpg|nhỏ|phải|[[George V của Vương quốc Anh|Vua George V]]. [[Vua của Vương quốc Anh]] và [[Lãnh địa Anh]], [[Hoàng đế Ấn Độ]].]]
Năm [[1801]], [[George III của Anh|George III]] từ chối danh hiệu của Hoàng đế khi được mời. Thời gian duy nhất khi chế độ quân chủ Anh đã tổ chức danh hiệu của hoàng đế trong triều đại kế thừa bắt đầu khi danh hiệu [[Hoàng đế Ấn Độ|Nữ hoàng Ấn Độ]] được tạo ra cho [[Victoria của Anh|Nữ hoàng Victoria]]. Chính phủ do [[Thủ tướng Chính phủ của Vương quốc Anh|Thủ tướng Chính phủ]] [[Benjamin Disraeli, Bá tước đời thứ nhất của Beaconsfield|Benjamin Disraeli]] đứng đầu tặng danh hiệu thêm cho bà theo Đạo luật của Quốc hội, nổi tiếng là làm dịu bớt sự kích thích vì vua tại vị chỉ là Nữ hoàng, thấp hơn so với con gái của bà ([[Victoria, Công chúa Hoàng gia|Công chúa Victoria]] là vợ của đương kim [[Friedrich III của Đức|Hoàng đế Đức]]); thiết kế Hoàng gia Ấn Độ cũng đã chính thức hợp lý biểu hiện thành công của Anh trong việc là người cai trị tối cao của [[Đế quốc Mogul|Mogul]], sử dụng quy tắc gián tiếp thông qua hàng trăm vương quốc chính thức được bảo hộ, không phải thuộc địa, nhưng chấp nhận Anh là [[bá chủ]] của họ. Danh hiệu này được từ bỏ bởi ''Kaisar-i-Hind'' cuối cùng là [[George VI của Anh|George VI]] khi Ấn Độ độc lập vào ngày [[15 tháng 8]] năm [[1947]].
 
Hai thập kỷ trước đó [[Đạo luật về danh hiệu của Nghị viện và Hoàng gia năm 1927]] đã nói rằng Vương quốc Anh và các lãnh địa "bình đẳng trong tình trạng, không phụ thuộc vào nhau trong bất kỳ khía cạnh của công việc bên trong hoặc bên ngoài của mình, mặc dù thống nhất bởi lòng trung thành phổ biến ngai vàng, và tự do liên quan như là thành viên của Khối thịnh vượng chung của Anh Quốc". Cùng với [[Điều lệ Westminster, năm 1931]], điều này đã thay đổi cách chế độ quân chủ nghị viện Anh cai trị các lãnh địa ở nước ngoài, di chuyển từ đế quốc thực dân Anh đối vớti một cấu trúc mới cho sự tương tác giữa [[Khối Thịnh vượng chung Anh|Khối thịnh vượng chung]] và Ngai vàng.
= Năm [[1801]], [[George III của Anh|George III]] từ chối danh hiệu của Hoàng đế khi được mời. Thời gian duy nhất khi chế độ quân chủ Anh đã tổ chức danh hiệu của hoàng đế trong triều đại kế thừa bắt đầu khi danh hiệu [[Hoàng đế Ấn Độ|Nữ hoàng Ấn Độ]] được tạo ra cho [[Victoria của Anh|Nữ hoàng Victoria]]. Chính phủ do [[Thủ tướng Chính phủ của Vương quốc Anh|Thủ tướng Chính phủ]] [[Benjamin Disraeli, Bá tước đời thứ nhất của Beaconsfield|Benjamin Disraeli]] đứng đầu tặng danh hiệu thêm cho bà theo Đạo luật của Quốc hội, nổi tiếng là làm dịu bớt sự kích thích vì vua tại vị chỉ là Nữ hoàng, thấp hơn so với con gái của bà ([[Victoria, Công chúa Hoàng gia|Công chúa Victoria]] là vợ của đương kim [[Friedrich III của Đức|Hoàng đế Đức]]); thiết kế Hoàng gia Ấn Độ cũng đã chính thức hợp lý biểu hiện thành công của Anh trong việc là người cai trị tối cao của [[Đế quốc Mogul|Mogul]], sử dụng quy tắc gián tiếp thông qua hàng trăm vương quốc chính thức được bảo hộ, không phải thuộc địa, nhưng chấp nhận Anh là [[bá chủ]] của họ. Danh hiệu này được từ bỏ bởi ''Kaisar-i-Hind'' cuối cùng là [[George VI của Anh|George VI]] khi Ấn Độ độc lập vào ngày [[15 tháng 8]] năm [[1947]]. =
 
= Hai thập kỷ trước đó [[Đạo luật về danh hiệu của Nghị viện và Hoàng gia năm 1927]] đã nói rằng Vương quốc Anh và các lãnh địa "bình đẳng trong tình trạng, không phụ thuộc vào nhau trong bất kỳ khía cạnh của công việc bên trong hoặc bên ngoài của mình, mặc dù thống nhất bởi lòng trung thành phổ biến ngai vàng, và tự do liên quan như là thành viên của Khối thịnh vượng chung của Anh Quốc". Cùng với [[Điều lệ Westminster, năm 1931]], điều này đã thay đổi cách chế độ quân chủ nghị viện Anh cai trị các lãnh địa ở nước ngoài, di chuyển từ đế quốc thực dân Anh đối vớti một cấu trúc mới cho sự tương tác giữa [[Khối Thịnh vượng chung Anh|Khối thịnh vượng chung]] và Ngai vàng. =
 
= Nữ hoàng cuối cùng của Ấn Độ là [[Elizabeth Bowes-Lyon]]. =
 
===Đế chế Đức===
{{chính|Đế chế Đức}}
Dưới chiêu bài chủ nghĩa lý tưởng mở đường cho chủ nghĩa hiện thực, những người theo [[chủ nghĩa dân tộc]] [[Đức]] nhanh chóng từ bỏ xu hướng tự do dân chủ trong trào lưu cách mạng [[1848]] - [[1849]] và hướng tới "chính sách thực dụng" (''Realpolitik'') của [[Thủ tướng]] [[Vương quốc Phổ|nước Phổ]] là [[Otto von Bismarck]]. Bismarck muốn thôn tính những nước Đức nhỏ địch thủ để đạt được mục tiêu của ông về một nước Đức thống nhất và theo đường lối bảo thủ do Phổ thống trị. Thắng lợi của Vương quốc Phổ trong ba cuộc chiến tranh ([[chiến tranh Schleswig lần thứ hai]] chống [[Đan Mạch]] vào năm [[1864]], [[chiến tranh Áo-Phổ]] chống lại [[Áo]] vào năm [[1866]] và [[chiến tranh Pháp-Phổ]] chống lại [[Đế chế thứ hai]] Pháp vào các năm [[1870]] - [[1871]]) đã đem lại thành công cho đường lối của Bismarck. Sau khi [[Cuộc vây hãm Paris|hạ được thủ đô Paris của Pháp]] vào năm 1871, [[Liên bang Bắc Đức]] - với sự ủng hộ của các đồng minh miền nam nước Đức - bắt tay ngay vào việc thành lập một [[Đế quốc Đức|Đế chế Đức]]. Nhà vua Phổ là [[Wilhelm I của Đức|Wilhelm I]] đã làm lễ đăng quang ngôi Hoàng đế Đức tại [[Lâu đài Versailles|Cung điện Versailles]] - một hành động với mục đích nhằm sỉ nhục nước Pháp bại trận.
 
Sau khi Hoàng đế Wilhelm I qua đời, [[Thái tử|Hoàng thái tử]] Friedrich lên nối ngôi báu, tức Hoàng đế [[Friedrich III của Đức|Friedrich III]], nhưng chỉ trị vì được có 99 ngày thì bệnh mất. Cùng năm đó, con của Friedrich III là Hoàng thái tử Wilhelm lên ngôi Hoàng đế [[Wilhelm II của Đức|Wilhelm II]]. Trong năm 1888 nước Đức đã ba lần thay đổi ngôi vị Hoàng đế. Wilhelm II cũng là vị Hoàng đế cuối cùng của Đế chế Đức: sau khi Đức thất bại trong cuộc [[Chiến tranh thế giới thứ nhất]] ([[1914]] - [[1918]]) và phong trào [[Cách mạng Đức (1918)]] bùng nổ, Đế chế Đức cũng diệt vong, nhường chỗ cho nền [[Cộng hòa Weimar]].
= Dưới chiêu bài chủ nghĩa lý tưởng mở đường cho chủ nghĩa hiện thực, những người theo [[chủ nghĩa dân tộc]] [[Đức]] nhanh chóng từ bỏ xu hướng tự do dân chủ trong trào lưu cách mạng [[1848]] - [[1849]] và hướng tới "chính sách thực dụng" (''Realpolitik'') của [[Thủ tướng]] [[Vương quốc Phổ|nước Phổ]] là [[Otto von Bismarck]]. Bismarck muốn thôn tính những nước Đức nhỏ địch thủ để đạt được mục tiêu của ông về một nước Đức thống nhất và theo đường lối bảo thủ do Phổ thống trị. Thắng lợi của Vương quốc Phổ trong ba cuộc chiến tranh ([[chiến tranh Schleswig lần thứ hai]] chống [[Đan Mạch]] vào năm [[1864]], [[chiến tranh Áo-Phổ]] chống lại [[Áo]] vào năm [[1866]] và [[chiến tranh Pháp-Phổ]] chống lại [[Đế chế thứ hai]] Pháp vào các năm [[1870]] - [[1871]]) đã đem lại thành công cho đường lối của Bismarck. Sau khi [[Cuộc vây hãm Paris|hạ được thủ đô Paris của Pháp]] vào năm 1871, [[Liên bang Bắc Đức]] - với sự ủng hộ của các đồng minh miền nam nước Đức - bắt tay ngay vào việc thành lập một [[Đế quốc Đức|Đế chế Đức]]. Nhà vua Phổ là [[Wilhelm I của Đức|Wilhelm I]] đã làm lễ đăng quang ngôi Hoàng đế Đức tại [[Lâu đài Versailles|Cung điện Versailles]] - một hành động với mục đích nhằm sỉ nhục nước Pháp bại trận. =
 
= Sau khi Hoàng đế Wilhelm I qua đời, [[Thái tử|Hoàng thái tử]] Friedrich lên nối ngôi báu, tức Hoàng đế [[Friedrich III của Đức|Friedrich III]], nhưng chỉ trị vì được có 99 ngày thì bệnh mất. Cùng năm đó, con của Friedrich III là Hoàng thái tử Wilhelm lên ngôi Hoàng đế [[Wilhelm II của Đức|Wilhelm II]]. Trong năm 1888 nước Đức đã ba lần thay đổi ngôi vị Hoàng đế. Wilhelm II cũng là vị Hoàng đế cuối cùng của Đế chế Đức: sau khi Đức thất bại trong cuộc [[Chiến tranh thế giới thứ nhất]] ([[1914]] - [[1918]]) và phong trào [[Cách mạng Đức (1918)]] bùng nổ, Đế chế Đức cũng diệt vong, nhường chỗ cho nền [[Cộng hòa Weimar]]. =
 
==Hoàng đế theo mô hình châu Âu thời hậu thuộc địa==
[[Hình:Fala do trono.jpg|nhỏ|phải|200px|Hoàng đế Pedro II của Brazil trong Hoàng phục tại lễ khai mạc của Quốc hội (tranh sơn dầu của [[Pedro Américo]]).]]
===Brasil===
Khi [[Napoléon Bonaparte|Napoléon I]] ra lệnh xâm lược [[Bồ Đào Nha]] vào năm [[1807]] vì từ chối tham gia [[Hệ thống phong tỏa Lục địa]], người [[nhà Braganças]] chuyển thủ đô của họ đến [[Rio de Janeiro]] để tránh số phận của [[nhà Bourbon của Tây Ban Nha]] (Napoleon I bắt giữ họ và đưa anh trai của ông là [[Joseph Bonaparte|Joseph]] làm vua). Khi tướng Pháp [[Jean-Andoche Junot|Junot]] đến [[Lisboa|Lisbon]], hạm đội Bồ Đào Nha đã bỏ đi với tất cả tầng lớp thượng lưu ở các địa phương.
 
Năm [[1808]], dưới sự hộ tống của [[hải quân Hoàng gia Anh|hải quân Anh]], hạm đội Bồ Đào Nha đến [[Brasil]]. Sau đó, vào năm [[1815]], Vương tử Nhiếp chính Bồ Đào Nha (kể từ 1816 là vua [[João VI của Bồ Đào Nha|João VI]]) đã công bố thành lập ''Liên hiệp Vương quốc Bồ Đào Nha, Brazil và Algarve'', như một liên minh của 3 vương quốc, nâng Brazil khỏi tình trạng thuộc địa của nó.
= Khi [[Napoléon Bonaparte|Napoléon I]] ra lệnh xâm lược [[Bồ Đào Nha]] vào năm [[1807]] vì từ chối tham gia [[Hệ thống phong tỏa Lục địa]], người [[nhà Braganças]] chuyển thủ đô của họ đến [[Rio de Janeiro]] để tránh số phận của [[nhà Bourbon của Tây Ban Nha]] (Napoleon I bắt giữ họ và đưa anh trai của ông là [[Joseph Bonaparte|Joseph]] làm vua). Khi tướng Pháp [[Jean-Andoche Junot|Junot]] đến [[Lisboa|Lisbon]], hạm đội Bồ Đào Nha đã bỏ đi với tất cả tầng lớp thượng lưu ở các địa phương. =
 
Sau sự sụp đổ của Napoleon I và [[Chiến tranh Tự do|cuộc cách mạng tự do]] ở Bồ Đào Nha, Vương gia Bồ Đào Nha trở về [[châu Âu]] ([[1820]]). Vương tử Pedro Bragança (con trai lớn của vua João VI) ở lại [[Nam Mỹ]], trở thành Nhiếp chính của Brasil, nhưng hai năm sau đó là năm [[1822]], ông tự xưng làm Hoàng đế đầu tiên của đất nước này, tức [[Pedro I của Brasil|Pedro I]]. Pedro vẫn tôn phụ hoàng João VI là ''Hoàng đế Danh nghĩa của Brazil'', một danh hiệu thể hiện sự tôn kính cho đến khi João VI qua đời vào năm [[1826]].
= Năm [[1808]], dưới sự hộ tống của [[hải quân Hoàng gia Anh|hải quân Anh]], hạm đội Bồ Đào Nha đến [[Brasil]]. Sau đó, vào năm [[1815]], Vương tử Nhiếp chính Bồ Đào Nha (kể từ 1816 là vua [[João VI của Bồ Đào Nha|João VI]]) đã công bố thành lập ''Liên hiệp Vương quốc Bồ Đào Nha, Brazil và Algarve'', như một liên minh của 3 vương quốc, nâng Brazil khỏi tình trạng thuộc địa của nó. =
 
Đế chế Brasil chấm dứt vào năm [[1889]], khi Hoàng đế [[Pedro II của Brasil|Pedro II]] (con trai và người kế nhiệm của Pedro I) bị lật đổ và nước cộng hòa Brasil được thành lập.
= Sau sự sụp đổ của Napoleon I và [[Chiến tranh Tự do|cuộc cách mạng tự do]] ở Bồ Đào Nha, Vương gia Bồ Đào Nha trở về [[châu Âu]] ([[1820]]). Vương tử Pedro Bragança (con trai lớn của vua João VI) ở lại [[Nam Mỹ]], trở thành Nhiếp chính của Brasil, nhưng hai năm sau đó là năm [[1822]], ông tự xưng làm Hoàng đế đầu tiên của đất nước này, tức [[Pedro I của Brasil|Pedro I]]. Pedro vẫn tôn phụ hoàng João VI là ''Hoàng đế Danh nghĩa của Brazil'', một danh hiệu thể hiện sự tôn kính cho đến khi João VI qua đời vào năm [[1826]]. =
 
= Đế chế Brasil chấm dứt vào năm [[1889]], khi Hoàng đế [[Pedro II của Brasil|Pedro II]] (con trai và người kế nhiệm của Pedro I) bị lật đổ và nước cộng hòa Brasil được thành lập. =
 
===Haiti===
[[Haiti]] đã tuyên bố là một đế chế bởi người cai trị của mình, [[Jean-Jacques Dessalines]], người tự lập mình làm Hoàng đế Jacques I vào ngày [[20 tháng 5]] năm [[1805]]. Ông bị ám sát vào năm tiếp theo. Haiti một lần nữa trở thành một đế chế từ [[1849]]-[[1859]] dưới quyền của [[Faustin Soulouque]].
 
= [[Haiti]] đã tuyên bố là một đế chế bởi người cai trị của mình, [[Jean-Jacques Dessalines]], người tự lập mình làm Hoàng đế Jacques I vào ngày [[20 tháng 5]] năm [[1805]]. Ông bị ám sát vào năm tiếp theo. Haiti một lần nữa trở thành một đế chế từ [[1849]]-[[1859]] dưới quyền của [[Faustin Soulouque]]. =
 
===México===
[[Hình:X-Large Portrait of Maximiliano.jpg|nhỏ|trái|Chân dung của Maximilian I của México, bởi [[Franz Xaver Winterhalter]].]]
 
= Tại [[México]], Đế chế México thứ nhất là một trong 2 đế chế đầu tiên được tạo ra. Agustín de Iturbide, viên tướng đã tuyên bố Mexico độc lập khỏi ách thống trị của [[Tây Ban Nha]], đã được công bố là Hoàng đế [[Agustín I]] vào ngày [[12 tháng 7]] năm [[1822]], nhưng bị lật đổ bởi một sự kiện gọi là [[Kế hoạch của Casa Mata]] vào năm sau đó. =
 
= Vào năm [[1863]], quân xâm lược Pháp, dưới thời [[Napoléon III]] (xem ở trên), trong liên minh với phe bảo thủ và giới quý tộc México, đã dựng nên Đế chế México thứ hai với Hoàng đế của nó là [[Maximilian của México|Đại Công tước Maximilian]] của [[họ Habsburg|nhà Habsburg-Lorraine]], em trai của [[Hoàng đế Áo]] [[Franz Joseph I của Áo|Franz Josef I]]. Maximilian không có con và hoàng hậu của ông là [[Carlota của Mexico|Carlota]], con gái vua [[Leopold I của Bỉ]], nhận nuôi cháu của Agustín là Agustin và Salvador như người thừa kế của Maximilian để củng cố ngai vàng của Mexico. Maximilian và Carlota chọn [[Lâu đài Chapultepec]] là nơi ngự trị của họ, vốn là cung điện duy nhất tại [[Bắc Mỹ]] là nhà của người cầm quyền. Sau khi nền thống trị của Pháp bị đánh đuổi vào năm [[1867]], Hoàng đế Maximilian bị bắt và xử tử bởi quân giải phóng của [[Benito Juárez]]. Đế chế này dẫn đến ảnh hưởng của Pháp trong nền văn hóa México và làn sóng nhập cư của người dâb từ Pháp, [[Bỉ]] và [[Thụy Sĩ]] đến México. =
 
==Các quốc gia thời tiền Columbus==
Truyền thống [[Aztec]] và [[Đế chế Inca|Inca]] đều không liên quan đến nhau. Cả hai quốc gia này đều bị chinh phục dưới triều đại của vua [[Charles I của Tây Ban Nha]], người đã đồng thời là hoàng đế mới đắc cử của [[Đế quốc La Mã Thần thánh]] khi Aztec bị xâm chiếm và là hoàng đế chính thức khi Inca sụp đổ. Ngẫu nhiên là vua của Tây Ban Nha, ông cũng là hoàng đế La Mã (Byzantine) trên danh nghĩa thông qua [[Andreas Palaiologos]]. Các bản dịch về tước hiệu của hai quốc gia này đều được thực hiện bởi Tây Ban Nha.
 
= Truyền thống [[Aztec]] và [[Đế chế Inca|Inca]] đều không liên quan đến nhau. Cả hai quốc gia này đều bị chinh phục dưới triều đại của vua [[Charles I của Tây Ban Nha]], người đã đồng thời là hoàng đế mới đắc cử của [[Đế quốc La Mã Thần thánh]] khi Aztec bị xâm chiếm và là hoàng đế chính thức khi Inca sụp đổ. Ngẫu nhiên là vua của Tây Ban Nha, ông cũng là hoàng đế La Mã (Byzantine) trên danh nghĩa thông qua [[Andreas Palaiologos]]. Các bản dịch về tước hiệu của hai quốc gia này đều được thực hiện bởi Tây Ban Nha. =
 
===Đế chế Aztec===
Những "hoàng đế" của [[đế quốc Aztec]] ([[1375]]-[[1521]]) được người dân bản địa gọi với tước hiệu ''[[Hueyi Tlatoani]]''. Đó là một [[chế độ quân chủ]] được bầu chọn bởi tầng lớp thượng lưu. Một viên tướng Tây Ban Nha [[Hernán Cortés]] đã giết Hoàng đế [[Cuauhtémoc]] và thiết lập một nhà cai trị bù nhìn làm chư hầu cho Tây Ban Nha. [[Maximilian của México|Hoàng đế Maximilian]] của México xây dựng cung điện của mình, [[Lâu đài Chapultepec]], trên đống đổ nát của một lâu đài Aztec xưa.
 
= Những "hoàng đế" của [[đế quốc Aztec]] ([[1375]]-[[1521]]) được người dân bản địa gọi với tước hiệu ''[[Hueyi Tlatoani]]''. Đó là một [[chế độ quân chủ]] được bầu chọn bởi tầng lớp thượng lưu. Một viên tướng Tây Ban Nha [[Hernán Cortés]] đã giết Hoàng đế [[Cuauhtémoc]] và thiết lập một nhà cai trị bù nhìn làm chư hầu cho Tây Ban Nha. [[Maximilian của México|Hoàng đế Maximilian]] của México xây dựng cung điện của mình, [[Lâu đài Chapultepec]], trên đống đổ nát của một lâu đài Aztec xưa. =
 
===Đế chế Inca===
"Hoàng đế" của [[đế chế Inca|đế quốc Inca]] ([[1438]]-[[1533]]) được người bản địa gọi là ''[[Sapa Inca]]''. Một viên tướng Tây Ban Nha là [[Francisco Pizarro]], người đã tổ chức cuộc xâm lược Inca, đã giết Hoàng đế Atahualpa và lập nên một vị vua Inca bù nhìn. Atahualpa thực sự có thể được coi là một người cướp ngôi vì ông đạt được quyền lực bằng cách giết chết [[Nội chiến Inca|anh trai cùng cha khác mẹ]] của mình và ông cũng không thực hiện lễ đăng quang cần thiết với vương miện hoàng đế ''mascaipacha'' bởi ''Uma Huillaq'' (giáo sĩ tối cao).
 
= "Hoàng đế" của [[đế chế Inca|đế quốc Inca]] ([[1438]]-[[1533]]) được người bản địa gọi là ''[[Sapa Inca]]''. Một viên tướng Tây Ban Nha là [[Francisco Pizarro]], người đã tổ chức cuộc xâm lược Inca, đã giết Hoàng đế Atahualpa và lập nên một vị vua Inca bù nhìn. Atahualpa thực sự có thể được coi là một người cướp ngôi vì ông đạt được quyền lực bằng cách giết chết [[Nội chiến Inca|anh trai cùng cha khác mẹ]] của mình và ông cũng không thực hiện lễ đăng quang cần thiết với vương miện hoàng đế ''mascaipacha'' bởi ''Uma Huillaq'' (giáo sĩ tối cao). =
 
==Ba Tư==
{{further|[[Shah]] và [[Vua của các vua]]}}
Tại [[Iran|Ba Tư]], từ thời điểm của [[Darius I của Ba Tư|Darius Đại đế]], người cai trị Ba Tư đã sử dụng danh hiệu "Vua của các vua" (Shahanshah trong tiếng hiện đại của Iran) kể từ khi họ cai trị trên các dân tộc từ [[Ấn Độ]] tới [[Hy Lạp]]. [[Alexandros Đại đế|Alexander Đại đế]] đã đăng quang là shahanshah sau khi chinh phục Ba Tư, đưa cụm từ ''basileus toon basileoon'' tới [[Hy Lạp]]. [[Tigranes Đại đế]], vua của Armenia, được đặt tên là vua của các vua khi ông tạo ra đế chế của mình sau khi đánh bại [[đế quốc Parthia]].
 
''Shahanshah'' cuối cùng bị lật đổ vào năm [[1979]] sau cuộc [[Cách mạng Hồi giáo|Cách mạng Iran]]. ''Shahanshah'' thường được dịch là ''vua của các vua'' hay chỉ đơn giản là ''vua'' cho các nhà cai trị cổ xưa của [[nhà Achaemenes|Achaemenid]], [[đế quốc Arsacid|Arsacid]] và [[nhà Sassanid|triều Sassanid]] và thường rút ngắn là ''shah'' cho nhà cầm quyền kể từ [[nhà Safavid|triều Safavid]] trong [[thế kỷ 16]].
= Tại [[Iran|Ba Tư]], từ thời điểm của [[Darius I của Ba Tư|Darius Đại đế]], người cai trị Ba Tư đã sử dụng danh hiệu "Vua của các vua" (Shahanshah trong tiếng hiện đại của Iran) kể từ khi họ cai trị trên các dân tộc từ [[Ấn Độ]] tới [[Hy Lạp]]. [[Alexandros Đại đế|Alexander Đại đế]] đã đăng quang là shahanshah sau khi chinh phục Ba Tư, đưa cụm từ ''basileus toon basileoon'' tới [[Hy Lạp]]. [[Tigranes Đại đế]], vua của Armenia, được đặt tên là vua của các vua khi ông tạo ra đế chế của mình sau khi đánh bại [[đế quốc Parthia]]. =
 
= ''Shahanshah'' cuối cùng bị lật đổ vào năm [[1979]] sau cuộc [[Cách mạng Hồi giáo|Cách mạng Iran]]. ''Shahanshah'' thường được dịch là ''vua của các vua'' hay chỉ đơn giản là ''vua'' cho các nhà cai trị cổ xưa của [[nhà Achaemenes|Achaemenid]], [[đế quốc Arsacid|Arsacid]] và [[nhà Sassanid|triều Sassanid]] và thường rút ngắn là ''shah'' cho nhà cầm quyền kể từ [[nhà Safavid|triều Safavid]] trong [[thế kỷ 16]]. =
 
==Tiểu lục địa Ấn Độ==
{{chính|Samraat}}
Từ [[tiếng Phạn]] cho hoàng đế là ''Samrāṭ'' hoặc ''Chakravarti'' (từ gốc: ''samrāj''). Từ này được sử dụng như là một hình dung của các vị thần [[Kinh Vệ Đà|Vệ Đà]] khác nhau như Varuna và đã được chứng thực trong [[Kinh Vệ Đà]], có thể là cuốn sách được biên soạn lâu đời nhất trong các tác phẩm Ấn-Âu. ''Chakravarti'' được đề cập đến như vua của các vua. ''Chakravarti'' là không chỉ là một người cai trị có chủ quyền nhưng cũng là người sáng lập.
 
Thông thường, trong thời đại Vệ Đà sau đó, một vị vua [[Ấn Độ giáo]] (Maharajah) chỉ được gọi là ''Samrāṭ'' sau khi thực hiện lễ hiến tế Vệ Đà ''Rājasūya'', thiết lập ông bởi truyền thống tôn giáo để khẳng định tính ưu việt hơn các vị vua và hoàng tử khác. Một từ khác cho hoàng đế là ''sārvabhaumā''. Danh hiệu của ''Samrāṭ'' được sử dụng bởi các nhà cai trị của tiểu lục địa Ấn Độ tuyên bố như là chủ quyền bởi thần thoại Hindu. Trong lịch sử, hầu hết các nhà sử học gọi Chandragupta Maurya là ''samrāṭ'' (hoàng đế) đầu tiên của tiểu lục địa Ấn Độ, bởi vì đế quốc khổng lồ ông cai trị. "Hoàng đế" Phật giáo nổi tiếng nhất là cháu trai của ông [[A-dục vương]]. Các vị vua của một số triều đại khác cũng được coi là Hoàng đế như là [[Đế quốc Quý Sương|Quý Sương]], [[Đế quốc Gupta|Gupta]], [[Đế quốc Vijayanagara|Vijayanagara]], [[Đế quốc Hoysala|Hoysala]] và [[triều Chola|Chola]].
= Từ [[tiếng Phạn]] cho hoàng đế là ''Samrāṭ'' hoặc ''Chakravarti'' (từ gốc: ''samrāj''). Từ này được sử dụng như là một hình dung của các vị thần [[Kinh Vệ Đà|Vệ Đà]] khác nhau như Varuna và đã được chứng thực trong [[Kinh Vệ Đà]], có thể là cuốn sách được biên soạn lâu đời nhất trong các tác phẩm Ấn-Âu. ''Chakravarti'' được đề cập đến như vua của các vua. ''Chakravarti'' là không chỉ là một người cai trị có chủ quyền nhưng cũng là người sáng lập. =
 
Sau khi [[Ấn Độ]] bị xâm lược bởi các [[Hãn]] [[Mông Cổ]] và người [[Hồi giáo]] gốc [[Hãn quốc Đột Quyết|Đột Quyết]], các nhà cai trị của các quốc gia lớn trên tiểu lục địa đều có danh hiệu [[Sultan|Xuntan]] của các nước Hồi giáo. Theo cách này, chỉ có một nữ hoàng tại ngôi duy nhất thực sự ngồi trên ngai vàng là [[Sultan Razia]]. Đối với giai đoạn [[1877]]-[[1947]] khi Hoàng đế Anh cai trị, thuộc địa Ấn Độ là viên ngọc trên vương miện của [[Đế quốc Anh]], xem ở trên.
= Thông thường, trong thời đại Vệ Đà sau đó, một vị vua [[Ấn Độ giáo]] (Maharajah) chỉ được gọi là ''Samrāṭ'' sau khi thực hiện lễ hiến tế Vệ Đà ''Rājasūya'', thiết lập ông bởi truyền thống tôn giáo để khẳng định tính ưu việt hơn các vị vua và hoàng tử khác. Một từ khác cho hoàng đế là ''sārvabhaumā''. Danh hiệu của ''Samrāṭ'' được sử dụng bởi các nhà cai trị của tiểu lục địa Ấn Độ tuyên bố như là chủ quyền bởi thần thoại Hindu. Trong lịch sử, hầu hết các nhà sử học gọi Chandragupta Maurya là ''samrāṭ'' (hoàng đế) đầu tiên của tiểu lục địa Ấn Độ, bởi vì đế quốc khổng lồ ông cai trị. "Hoàng đế" Phật giáo nổi tiếng nhất là cháu trai của ông [[A-dục vương]]. Các vị vua của một số triều đại khác cũng được coi là Hoàng đế như là [[Đế quốc Quý Sương|Quý Sương]], [[Đế quốc Gupta|Gupta]], [[Đế quốc Vijayanagara|Vijayanagara]], [[Đế quốc Hoysala|Hoysala]] và [[triều Chola|Chola]]. =
 
= Sau khi [[Ấn Độ]] bị xâm lược bởi các [[Hãn]] [[Mông Cổ]] và người [[Hồi giáo]] gốc [[Hãn quốc Đột Quyết|Đột Quyết]], các nhà cai trị của các quốc gia lớn trên tiểu lục địa đều có danh hiệu [[Sultan|Xuntan]] của các nước Hồi giáo. Theo cách này, chỉ có một nữ hoàng tại ngôi duy nhất thực sự ngồi trên ngai vàng là [[Sultan Razia]]. Đối với giai đoạn [[1877]]-[[1947]] khi Hoàng đế Anh cai trị, thuộc địa Ấn Độ là viên ngọc trên vương miện của [[Đế quốc Anh]], xem ở trên. =
 
==Châu Phi==
===Ethiopia===
{{chính|Hoàng đế Ethiopia}}
Tại [[Ethiopia]], [[triều Solomon]] sử dụng danh hiệu "nəgusä nägäst" có nghĩa là "Vua của các Vua" bắt đầu từ năm [[1270]]. Việc sử dụng tước hiệu "Vua của các vua" bắt đầu một [[thiên niên kỷ]] trước đó trong khu vực này, tuy nhiên, với danh hiệu được sử dụng bởi các vị vua của [[Vương quốc Aksum|Aksum]], bắt đầu với [[Nhà Sembrouthe]] trong [[thế kỷ 3]]. Một danh hiệu khác được sử dụng bởi triều đại này là "Itegue Zetopia".
 
"Itegue" tạm dịch là Nữ hoàng, và cũng được sử dụng bởi phụ nữ duy nhất trị vì như Nữ hoàng, [[Zauditu của Ethiopia|Zauditu]], cùng với danh hiệu chính thức ''Negiste Negest'' (Nữ hoàng của các Vua).
= Tại [[Ethiopia]], [[triều Solomon]] sử dụng danh hiệu "nəgusä nägäst" có nghĩa là "Vua của các Vua" bắt đầu từ năm [[1270]]. Việc sử dụng tước hiệu "Vua của các vua" bắt đầu một [[thiên niên kỷ]] trước đó trong khu vực này, tuy nhiên, với danh hiệu được sử dụng bởi các vị vua của [[Vương quốc Aksum|Aksum]], bắt đầu với [[Nhà Sembrouthe]] trong [[thế kỷ 3]]. Một danh hiệu khác được sử dụng bởi triều đại này là "Itegue Zetopia". =
 
Năm 1936, sau khi Ethiopia bị [[phát xít Ý]] xâm chiếm trong [[Chiến tranh Ý-Abyssinia lần thứ hai]], [[vua Ý]] là [[Victor Emmanuel III của Ý|Victor Emmanuel III]] cũng tự xưng làm [[Hoàng đế Ethiopia]]. Sau khi đế quốc Anh đuổi cổ phát xít Ý khỏi Ethiopia vào năm [[1941]], hoàng đế [[Haile Selassie của Ethiopia|Haile Selassie]] khôi phục lại ngai vàng nhưng Victor Emmanuel vẫn tiếp tục xưng Hoàng đế cho đến tận năm [[1943]].
= "Itegue" tạm dịch là Nữ hoàng, và cũng được sử dụng bởi phụ nữ duy nhất trị vì như Nữ hoàng, [[Zauditu của Ethiopia|Zauditu]], cùng với danh hiệu chính thức ''Negiste Negest'' (Nữ hoàng của các Vua). =
 
Rastafari tuyên bố Selassie như Chúa tái sinh trước và thậm chí nhiều hơn sau khi [[Chiến tranh thế giới thứ hai]] (xem [[phong trào Rastafari]]) vì sự dũng cảm của mình trong Chiến tranh Ý-Abyssinia lần thứ hai, việc ông cứu tổ quốc của mình và bài ​​phát biểu tuyệt vời của mình với người của [[vương quốc Anh]]. Sau đó, từ ''Hoàng đế '' được sử dụng bởi các thành viên của nó như là một kính cẩn của việc sử dụng độc quyền cho vua thần linh của họ, Hoàng đế cuối cùng của Ethiopia.
= Năm 1936, sau khi Ethiopia bị [[phát xít Ý]] xâm chiếm trong [[Chiến tranh Ý-Abyssinia lần thứ hai]], [[vua Ý]] là [[Victor Emmanuel III của Ý|Victor Emmanuel III]] cũng tự xưng làm [[Hoàng đế Ethiopia]]. Sau khi đế quốc Anh đuổi cổ phát xít Ý khỏi Ethiopia vào năm [[1941]], hoàng đế [[Haile Selassie của Ethiopia|Haile Selassie]] khôi phục lại ngai vàng nhưng Victor Emmanuel vẫn tiếp tục xưng Hoàng đế cho đến tận năm [[1943]]. =
 
= Rastafari tuyên bố Selassie như Chúa tái sinh trước và thậm chí nhiều hơn sau khi [[Chiến tranh thế giới thứ hai]] (xem [[phong trào Rastafari]]) vì sự dũng cảm của mình trong Chiến tranh Ý-Abyssinia lần thứ hai, việc ông cứu tổ quốc của mình và bài ​​phát biểu tuyệt vời của mình với người của [[vương quốc Anh]]. Sau đó, từ ''Hoàng đế '' được sử dụng bởi các thành viên của nó như là một kính cẩn của việc sử dụng độc quyền cho vua thần linh của họ, Hoàng đế cuối cùng của Ethiopia. =
 
=== Đế quốc Trung Phi===
Năm [[1976]], Tổng thống [[Jean-Bédel Bokassa]] của [[Cộng hòa Trung Phi]] tuyên bố đất nước là [[Đế quốc Trung Phi]] và đã biến mình thành Hoàng đế Bokassa I. Các khoản chi phí kinh khủng của buổi lễ đăng quang của ông đã khiến đất nước bị phá sản. Ông bị lật đổ chỉ 3 năm sau đó và nước cộng hòa được phục hồi.
 
= Năm [[1976]], Tổng thống [[Jean-Bédel Bokassa]] của [[Cộng hòa Trung Phi]] tuyên bố đất nước là [[Đế quốc Trung Phi]] và đã biến mình thành Hoàng đế Bokassa I. Các khoản chi phí kinh khủng của buổi lễ đăng quang của ông đã khiến đất nước bị phá sản. Ông bị lật đổ chỉ 3 năm sau đó và nước cộng hòa được phục hồi. =
 
==Truyền thống Đông Á==
Truyền thống [[Đông Á]] là khác biệt với truyền thống [[Đế quốc La Mã|La Mã]], phát sinh một cách riêng biệt. Những gì liên kết chúng lại với nhau là việc sử dụng từ 皇 (''huáng'') và 帝 (''dì'') mà cùng nhau hoặc cá nhân là hoàng đế. Do ảnh hưởng văn hóa của Trung Quốc, các nước láng giềng của nước này đã thông qua danh hiệu này hoặc đã có danh hiệu mẹ đẻ của họ phù hợp với từ [[tiếng Trung Quốc|tiếng Hán]].
 
= Truyền thống [[Đông Á]] là khác biệt với truyền thống [[Đế quốc La Mã|La Mã]], phát sinh một cách riêng biệt. Những gì liên kết chúng lại với nhau là việc sử dụng từ 皇 (''huáng'') và 帝 (''dì'') mà cùng nhau hoặc cá nhân là hoàng đế. Do ảnh hưởng văn hóa của Trung Quốc, các nước láng giềng của nước này đã thông qua danh hiệu này hoặc đã có danh hiệu mẹ đẻ của họ phù hợp với từ [[tiếng Trung Quốc|tiếng Hán]]. =
 
===Trung Quốc===
{{chính|Hoàng đế Trung Hoa}}
[[Hình:QinshihuangBW.jpg|nhỏ|200px|Tần Thủy Hoàng.]]
Thời thượng cổ, các vua có danh hiệu Hoàng hoặc Đế ([[Tam Hoàng Ngũ Đế]]). Thời [[nhà Hạ]] và giai đoạn đầu [[nhà Thương]], vua khi còn sống thì gọi là [[Hậu]], sau khi mất thì gọi là [[Đế]]. Đến cuối đời [[nhà Thương]] và từ đời [[nhà Chu]], tước vị để chỉ vua là [[Vương (tước hiệu)|Vương]], kể cả khi còn sống và khi đã qua đời.
 
Năm 221 trước [[Công Nguyên]], Tần Vương Doanh Chính thống nhất các nước nhỏ, các dân tộc khác nhau trên một vùng rộng lớn tạo ra tiền đề để tạo thành nước Trung Quốc sau này. Vua Tần là Doanh Chính vốn đang xưng Vương không muốn dùng lại danh xưng Vương như vua nhà Chu, mà sau này sẽ được dùng làm tước phong tặng cho các công thần của mình (tước Vương). Để chứng tỏ đẳng cấp cao hơn của vua nhà Tần mới so với vua nhà Chu cũ, phân rõ tôn ti trên dưới với các vua cai trị các tiểu quốc cũ đã bị tiêu diệt, tỏ rõ thần quyền phong kiến chính danh với dân các nước đã bị chiếm đoạt, tiêu diệt, Tần Doanh Chính đã ghép chữ Hoàng là danh xưng của 3 vị vua thời [[Tam Hoàng Ngũ Đế|Tam Hoàng]] và chữ Đế là danh xưng của 5 vị vua thời [[Tam Hoàng Ngũ Đế|Ngũ Đế]] thời thượng cổ thành tước vị '''Hoàng đế''', và trở thành vị Hoàng đế đầu tiên trong lịch sử nước Tần, tức là [[Tần Thủy Hoàng]]. Từ đó các vị vua [[phong kiến tập quyền]] chính thống ở Trung Quốc cũng dùng danh vị này, và tước Vương trở thành bậc thứ hai.
= Thời thượng cổ, các vua có danh hiệu Hoàng hoặc Đế ([[Tam Hoàng Ngũ Đế]]). Thời [[nhà Hạ]] và giai đoạn đầu [[nhà Thương]], vua khi còn sống thì gọi là [[Hậu]], sau khi mất thì gọi là [[Đế]]. Đến cuối đời [[nhà Thương]] và từ đời [[nhà Chu]], tước vị để chỉ vua là [[Vương (tước hiệu)|Vương]], kể cả khi còn sống và khi đã qua đời. =
 
= Năm 221 trước [[Công Nguyên]], Tần Vương Doanh Chính thống nhất các nước nhỏ, các dân tộc khác nhau trên một vùng rộng lớn tạo ra tiền đề để tạo thành nước Trung Quốc sau này. Vua Tần là Doanh Chính vốn đang xưng Vương không muốn dùng lại danh xưng Vương như vua nhà Chu, mà sau này sẽ được dùng làm tước phong tặng cho các công thần của mình (tước Vương). Để chứng tỏ đẳng cấp cao hơn của vua nhà Tần mới so với vua nhà Chu cũ, phân rõ tôn ti trên dưới với các vua cai trị các tiểu quốc cũ đã bị tiêu diệt, tỏ rõ thần quyền phong kiến chính danh với dân các nước đã bị chiếm đoạt, tiêu diệt, Tần Doanh Chính đã ghép chữ Hoàng là danh xưng của 3 vị vua thời [[Tam Hoàng Ngũ Đế|Tam Hoàng]] và chữ Đế là danh xưng của 5 vị vua thời [[Tam Hoàng Ngũ Đế|Ngũ Đế]] thời thượng cổ thành tước vị '''Hoàng đế''', và trở thành vị Hoàng đế đầu tiên trong lịch sử nước Tần, tức là [[Tần Thủy Hoàng]]. Từ đó các vị vua [[phong kiến tập quyền]] chính thống ở Trung Quốc cũng dùng danh vị này, và tước Vương trở thành bậc thứ hai. =
 
= Ngôi vị của vua phong kiến xưa ở Trung Quốc tức Hoàng đế theo chế độ [[tông pháp]] tức "cha truyền con nối". Khi Trung Quốc bị chia cắt, các vua đều tự xưng là Hoàng đế. Hoàng đế chính thức cuối cùng ở Trung Quốc là [[Phổ Nghi]], thoái vị năm [[1911]] dù [[Viên Thế Khải]] sau đó cũng xưng làm Hoàng đế nhưng không chính thức. =
 
= Tước vị hoàng đế còn dùng để tôn phong cho những bậc tổ tiên của hoàng đế, dù các vị đó chưa bao giờ làm vua. Như khi [[Đường Cao Tổ|Lý Uyên]] lập ra [[nhà Đường]], đã phong cho [[Lão Tử|Lão tử]] (tên là Lý Đam - nhà Đường lấy làm thủy tổ) làm hoàng đế, và các thế hệ bên trên làm hoàng đế hết. Khi vua nối ngôi không phải con vua trước, thường cũng tôn phong cha đẻ của mình làm hoàng đế. Có trường hợp như [[thái tử]] [[Lý Hoằng]] con của [[Đường Cao Tông]] và [[Võ Tắc Thiên]], bị mẹ phế vị rồi bức tử, Đường Cao Tông cũng thương con mà phong hiệu là hoàng đế; hoặc Nhiếp chính vương [[Đa Nhĩ Cổn]] của [[nhà Thanh]] cũng được phong hoàng đế khi chết, dù chỉ là chú của vua. =
 
===Nhật Bản===
Hàng 251 ⟶ 229:
[[Hình:Emperor Showa.jpg|nhỏ|200px|[[Thiên hoàng Chiêu Hòa]] (裕仁) là vị Thiên hoàng cuối cùng cai trị với quyền lực rộng lớn của một vị vua thật sự cũng như với "thần tính" (chụp năm [[1926]]).]]
 
= Trong thời Nhật Bản cổ đại, những danh hiệu đầu tiên dùng cho người đứng đầu nhà nước quân chủ Nhật Bản là ヤマト大王/大君 (''yamato ōkimi'', Vua vĩ đại của Yamato) hay ''Oa Vương'', ''Oa Quốc Vương'' 倭王/倭国王 (''waō''/''wakokuō'', đây là danh hiệu mà các quốc gia khác gọi họ) hoặc ''Trị thiên hạ Đại vương'', 治天下大王 (''amenoshita shiroshimesu ōkimi'', được sử dụng trong nước Nhật). Ngay từ [[thế kỷ 7]] từ "Thiên hoàng", 天皇 (có thể được đọc như ''sumera no mikoto'', trật tự thần thánh, hoặc là ''tennō'', sau này được bắt nguồn từ một thuật ngữ Trung Quốc đề cập đến ngôi sao cực mà tất cả các ngôi sao khác xoay xung quanh) đã bắt đầu được sử dụng. Tài liệu đầu tiên xác nhận việc sử dụng thuật ngữ này là một tấm gỗ phảng, hoặc ''[[mokkan]]'', được khai quật tại Asuka-Mura, tỉnh Nara vào năm [[1998]] và có từ thời trị vì của [[Thiên hoàng Jimmu|Thiên hoàng Thần Vũ]] và nữ [[Thiên hoàng Jitō|Thiên hoàng Trì Thống]]. Thiên hoàng đã trở thành một tước hiệu "chuẩn" cho vua Nhật Bản và bao gồm cả thời đại hiện nay. Từ "đế" 帝 (''mikado'') cũng được tìm thấy trong các nguồn văn học. =
 
= Năm 607, các vua Nhật Bản tuyên bố tước vị của mình ngang hàng với các [[Danh sách vua Trung Quốc|Hoàng đế Trung Hoa]]; tuy nhiên tước hiệu "[[Thiên tử]]" của Trung Quốc hiếm khi được dùng. Đối với người Nhật, danh hiệu Thiên hoàng chỉ dùng để ám chỉ các vị vua Nhật Bản còn danh hiệu Hoàng đế thì dùng cho các vua nước ngoài. Trong lịch sử Nhật Bản, nhiều vị vua cũng nhường ngôi cho con và tự lập mình làm [[Thái thượng hoàng]], ngồi ở ngôi nhiếp chính. Và cũng suốt 10 thế kỷ, Thiên hoàng chỉ ngồi làm vì còn thực quyền nằm trong tay các [[Shōgun|Chinh di Đại tướng quân]] cha truyền con nối (gọi tắt là Tướng quân) hay các [[Sesshō và Kampaku|Nhiếp chính Quan bạch]]. Trên thực tế, trong một phần lớn chiều dài lịch sử Nhật Bản, quyền lực của Thiên hoàng không khá hơn một ông vua bù nhìn là mấy. =
 
= Sau khi phát xít Nhật bị tiêu diệt trong Chiến tranh thế giới thứ hai, theo [[Tuyên ngôn nhân gian]] thì Thiên hoàng tuyên bố mình là người bình thường chứ không phải là thần thánh. Quyền lực của Thiên hoàng bị tước bỏ và thực quyền rơi vào tay một hệ thống Nghị viện dân chủ. Ở đây, mặc dù Thiên hoàng vẫn được nhiều học giả xem là một vị vua của chế độ [[quân chủ lập hiến]], Hiến pháp hiện tại của Nhật Bản chỉ xem Thiên hoàng là "biểu tượng quốc gia" chứ không xem Thiên hoàng là [[Nguyên thủ quốc gia]] hay bất kỳ chức vụ nào trong Nhà nước. Đến cuối thế kỷ 20, Nhật Bản là quốc gia duy nhất vẫn còn Hoàng đế tại vị. =
 
= Đến đầu thế kỷ 21, theo luật kế ngôi của Nhật Bản thì phụ nữ vẫn bị cấm kế vị ngai vàng. Tuy nhiên, do [[Thái tử]] [[Hoàng thái tử Naruhito|Đức Nhân]] không có con trai, ông đã đề nghị bãi bỏ luật cấm này để con gái của ông có thể hợp pháp kế thừa ngôi vị Thiên hoàng. Không lâu sau đó, khi Vương phi Kiko - vợ của Thân vương Fumihito mang thai một người con trai (tức [[Thân vương Hisahito]]), Thủ thướng [[Koizumi Junichirō|Koizumi Junichiro]] tuyên bố hủy bỏ đề nghi này. Vào ngày 3 tháng 1 năm 2007, sau khi Thân vương Hisahito chào đời, Thủ tướng [[Abe Shinzō|Abe Shinzo]] cũng tuyên bố rằng ông sẽ từ bỏ thay đổi luật cấm này.<ref>http://news.yahoo.com/s/ap/20070103/ap_on_re_as/japan_imperial_succession</ref><!-- Keep this section updated in line with the page for Emperor of Japan --> Hiện nay, nhiều người cho rằng vị tân Thân vương sẽ được chọn làm người thừa kế ngai vàng theo luật định. Tuy nhiên, trên thực tế Nhật Bản từng có 8 vị nữ hoàng đế, họ trị vì với tước hiệu Thiên hoàng chứ không phải tước hiệu Hoàng hậu (皇后) hay Trung cung (中宮). Và chuyện nữ giới có được kế ngôi hay không vẫn [[Tranh cãi về luật kế vị Nhật Bản|đang được cãi nhau ầm ĩ]]. Một điều đáng nói ở đây là, tổ tiên theo truyền thuyết của các Thiên hoàng lại chính là một vị nữ thần: [[Amaterasu|Thiên Chiếu Đại thần]], vị thần đứng đầu trong hệ thống thần linh của [[Thần đạo]]. =
 
===Việt Nam===
Hàng 263 ⟶ 241:
[[Hình:Baodai2.jpg|nhỏ|200px|Hoàng đế [[Bảo Đại]], là vị Hoàng đế cuối cùng trong [[lịch sử Việt Nam]].]]
 
= Vua ở [[Việt Nam]] mỗi khi giành được độc lập từ Trung Quốc cũng tự xưng Hoàng đế để không kém vua Trung Quốc về mặt danh xưng, như [[Lý Nam Đế]], [[Hậu Lý Nam Đế]], [[Mai Hắc Đế]], [[nhà Đinh]], [[nhà Tiền Lê]], [[nhà Lý]], [[nhà Trần]], [[nhà Hậu Lê]], [[nhà Mạc]], [[nhà Tây Sơn]] và [[nhà Nguyễn]]. Mặc dù vậy, để tránh xung đột không cần thiết với các triều đại Trung Quốc vì thuyết [[thiên mệnh]] về quyền lực nói rằng một trời không thể có hai hoàng đế hay thiên tử, các hoàng đế Việt Nam vẫn hay dùng danh xưng quốc vương khi ngoại giao với Trung Quốc như chỉ đơn giản là "An Nam Quốc vương". Việc này là một trong những dấu hiệu cho thấy ý tưởng "Việt Nam bình đẳng với Trung Quốc" mà vẫn còn nguyên vẹn cho đến ua [[Triềuthế Tiênkỷ Cao Tông20]] cũng<ref>{{chú khôngthích|author=Tuyet phảiNhung Tran, tướcAnthony hiệuJ. HoàngS. đếReid|title=Việt chínhNam thức.Borderless Histories|year=2006|publisher=The University of Wisconsin Press|location=Madison, Wisconsin|isbn=978-0-299-21770-9|ref=harv|page=67}}</ref>.
 
Năm [[1806]], Việt Nam tiếp thu đầy đủ biểu chương và y phục triều đình theo phong cách Trung Quốc trong nước và không sử dụng danh hiệu hoàng đế trong một [[thế kỷ]]. Việt Nam bị [[đế quốc Nhật Bản|phát xít Nhật]] xâm chiếm, sau đó đế quốc Nhật dựng lên một "[[Đế quốc Việt Nam]]" vào [[tháng ba|tháng 3]] năm [[1945]]. Hoàng đế cuối cùng ở Việt Nam là [[Bảo Đại]] tuyên bố thoái vị năm [[1945]], mặc dù sau này ông phục vụ như người đứng đầu nhà nước [[Quốc gia Việt Nam]] từ [[1949]]-[[1955]].
= Hai năm sau (năm [[1897]]), cuối cùng vua Cao Tông cũng chính thức xưng Hoàng đế, đặt niên hiệu là Quang Vũ (광무, 光武, ''Kwangmu'') và chuyển đổi nước Triều Tiên thành [[Đế quốc Đại Hàn]] (1897-[[1910]]). Đế quốc này không tồn tại lâu, chỉ 13 năm sau (năm 1910) nó bị đế quốc Nhật thôn tính. =
 
Cũng tương tự các hoàng đế [[Trung Quốc]], khi các triều đại mới được thành lập, vua cũng truy tôn các tổ tiên của mình làm hoàng đế, như [[nhà Trần]] truy tôn từ Trần Hấp tới [[Trần Lý]], [[nhà Mạc]] truy tôn từ [[Mạc Đĩnh Chi]] tới Mạc Hịch, [[nhà Nguyễn]] truy tôn từ [[Nguyễn Hoàng]] tới các [[chúa Nguyễn]] làm hoàng đế.
===Mông Cổ===
 
Các hoàng đế luôn có [[thụy hiệu]], và thường đều có [[miếu hiệu]]. Khi gọi các hoàng đế thường dùng [[họ]] và [[miếu hiệu]], khi không có miếu hiệu thì dùng [[thụy hiệu]]. Riêng [[nhà Nguyễn]], thường gọi hoàng đế bằng [[niên hiệu]].
= Sau khi thành lập [[đế quốc Mông Cổ|nhà nước Mông Cổ thống nhất]] vào năm [[1206]], [[Thành Cát Tư Hãn]] tư xưng mình làm [[Kha hãn]] (có nghĩa là Đại [[Hãn]]). Sau năm [[1271]], các vị vua của [[nhà Nguyên]] cũng tự xưng mình là Hoàng đế như Trung Hoa. Tuy nhiên, chỉ có các vị Đại Hãn Mông Cổ tính từ từ Thành Cát Tư Hãn cho đến khi nhà Nguyên mất vào năm [[1368]] mới được các tài liệu Tây phương gọi là "hoàng đế". =
 
Trong ngôn ngữ cung đình, đương kim hoàng đế được gọi là ''hoàng thượng bệ hạ'', vua đã qua đời được gọi là ''tiên đế'', ''tiên hoàng''. Bản thân hoàng đế gọi cha mình là ''hoàng khảo''.
==Châu Đại Dương==
 
===Triều Tiên===
= Hoàng đế duy nhất ở [[Châu Đại Dương]] là người đứng đầu của [[Đế quốc Tu'i Tonga|Đế quốc Tu'i Ton]][[thế kỷ 20]] <ref>{{chú thích|author=Tuyet Nhung Tran, Anthony J. S. Reid|title=Việt Nam Borderless Histories|year=2006|publisher=The University of Wisconsin Press|location=Madison, Wisconsin|isbn=978-0-299-21770-9|ref=harv|page=67}}</ref>. =
[[Hình:Gojong of the Korean Empire 01.jpg|nhỏ|200px|[[Triều Tiên Cao Tông]], vua của [[nhà Triều Tiên]] và của [[Đế quốc Đại Hàn]].]]
 
Các nhà cai trị của [[Cao Câu Ly]] (37 TCN-[[668]] CN) sử dụng tước hiệu ''[[Đại vương]]'' (태왕, 太王) ''T'aewang''). Ngoài ra một số nhà cai trị của [[Tân La]] (57 TCN-[[935]] CN) bao gồm [[Pháp Hưng vương của Tân La|Pháp Hưng vương]] và [[Chân Hưng vương của Tân La|Chân Hưng vương]] cũng sử dụng tước hiệu này nhằm khẳng định sự độc lập của mình khỏi ảnh hưởng của Cao Câu Ly. Tuy nhiên, mặc dù "Đại Vương" cao hơn "vương" bình thường nhưng cũng chưa phải là "Hoàng đế".
= Năm [[1806]], Việt Nam tiếp thu đầy đủ biểu chương và y phục triều đình theo phong cách Trung Quốc trong nước và không sử dụng danh hiệu hoàng đế trong một [[thế kỷ]]. Việt Nam bị [[đế quốc Nhật Bản|phát xít Nhật]] xâm chiếm, sau đó đế quốc Nhật dựng lên một "[[Đế quốc Việt Nam]]" vào [[tháng ba|tháng 3]] năm [[1945]]. Hoàng đế cuối cùng ở Việt Nam là [[Bảo Đại]] tuyên bố thoái vị năm [[1945]], mặc dù sau này ông phục vụ như người đứng đầu nhà nước [[Quốc gia Việt Nam]] từ [[1949]]-[[1955]]. =
 
Các nhà cai trị của nhà nước [[Bột Hải]] ([[698]]-[[926]]) bắt đầu tự xưng là Hoàng đế và đó là lần đầu tiên tước hiệu Hoàng đế được dùng ở Triều Tiên. Sau đó, nhiều vị vua Cao Ly cũng sử dụng đồng thời hai tước hiệu Đại vương và Hoàng đế. Tuy nhiên khi [[Chiến tranh Mông Cổ - Cao Ly|Cao Ly bị Mông Cổ xâm lược]] ([[1231]]-[[1258]]), các vua nhà Cao Ly bị tước bỏ danh hiệu danh hiệu Hoàng đế, chỉ còn là một vị Vương chư hầu của đế quốc Mông-Nguyên.
= Cũng tương tự các hoàng đế [[Trung Quốc]], khi các triều đại mới được thành lập, vua cũng truy tôn các tổ tiên của mình làm hoàng đế, như [[nhà Trần]] truy tôn từ Trần Hấp tới [[Trần Lý]], [[nhà Mạc]] truy tôn từ [[Mạc Đĩnh Chi]] tới Mạc Hịch, [[nhà Nguyễn]] truy tôn từ [[Nguyễn Hoàng]] tới các [[chúa Nguyễn]] làm hoàng đế. =
 
Các nhà cai trị của [[nhà Triều Tiên]] ([[1392]]-[[1897]]) không dùng danh hiệu Hoàng đế mà chỉ xưng là "Triều Tiên Quốc vương" (조선국왕, 朝鮮國王 ''Chosŏn Kukwang''). Năm [[1895]], Triều Tiên tuyên bố độc lập hoàn toàn từ ảnh hưởng của [[nhà Thanh]] bên [[Trung Quốc]], tuy nhiên tước hiệu "Đại Quân chủ Bệ hạ" (대군주폐하, 大君主陛下, ''Taekunchu P'aeha'') của vua [[Triều Tiên Cao Tông]] cũng không phải là tước hiệu Hoàng đế chính thức.
= Các hoàng đế luôn có [[thụy hiệu]], và thường đều có [[miếu hiệu]]. Khi gọi các hoàng đế thường dùng [[họ]] và [[miếu hiệu]], khi không có miếu hiệu thì dùng [[thụy hiệu]]. Riêng [[nhà Nguyễn]], thường gọi hoàng đế bằng [[niên hiệu]]. =
 
Hai năm sau (năm [[1897]]), cuối cùng vua Cao Tông cũng chính thức xưng Hoàng đế, đặt niên hiệu là Quang Vũ (광무, 光武, ''Kwangmu'') và chuyển đổi nước Triều Tiên thành [[Đế quốc Đại Hàn]] (1897-[[1910]]). Đế quốc này không tồn tại lâu, chỉ 13 năm sau (năm 1910) nó bị đế quốc Nhật thôn tính.
= Trong ngôn ngữ cung đình, đương kim hoàng đế được gọi là ''hoàng thượng bệ hạ'', vua đã qua đời được gọi là ''tiên đế'', ''tiên hoàng''. Bản thân hoàng đế gọi cha mình là ''hoàng khảo''. =
 
===TriềuMông TiênCổ===
Sau khi thành lập [[đế quốc Mông Cổ|nhà nước Mông Cổ thống nhất]] vào năm [[1206]], [[Thành Cát Tư Hãn]] tư xưng mình làm [[Kha hãn]] (có nghĩa là Đại [[Hãn]]). Sau năm [[1271]], các vị vua của [[nhà Nguyên]] cũng tự xưng mình là Hoàng đế như Trung Hoa. Tuy nhiên, chỉ có các vị Đại Hãn Mông Cổ tính từ từ Thành Cát Tư Hãn cho đến khi nhà Nguyên mất vào năm [[1368]] mới được các tài liệu Tây phương gọi là "hoàng đế".
[[Hình:Gojong of the Korean Empire 01.jpg|nhỏ|200px|[[Triều Tiên Cao Tông]], vua của [[nhà Triều Tiên]] và của [[Đế quốc Đại Hàn]].]]
 
==Châu Đại Dương==
= Các nhà cai trị của [[Cao Câu Ly]] (37 TCN-[[668]] CN) sử dụng tước hiệu ''[[Đại vương]]'' (태왕, 太王) ''T'aewang''). Ngoài ra một số nhà cai trị của [[Tân La]] (57 TCN-[[935]] CN) bao gồm [[Pháp Hưng vương của Tân La|Pháp Hưng vương]] và [[Chân Hưng vương của Tân La|Chân Hưng vương]] cũng sử dụng tước hiệu này nhằm khẳng định sự độc lập của mình khỏi ảnh hưởng của Cao Câu Ly. Tuy nhiên, mặc dù "Đại Vương" cao hơn "vương" bình thường nhưng cũng chưa phải là "Hoàng đế". =
Hoàng đế duy nhất ở [[Châu Đại Dương]] là người đứng đầu của [[Đế quốc Tu'i Tonga]].
 
= Các nhà cai trị của nhà nước [[Bột Hải]] ([[698]]-[[926]]) bắt đầu tự xưng là Hoàng đế và đó là lần đầu tiên tước hiệu Hoàng đế được dùng ở Triều Tiên. Sau đó, nhiều vị vua Cao Ly cũng sử dụng đồng thời hai tước hiệu Đại vương và Hoàng đế. Tuy nhiên khi [[Chiến tranh Mông Cổ - Cao Ly|Cao Ly bị Mông Cổ xâm lược]] ([[1231]]-[[1258]]), các vua nhà Cao Ly bị tước bỏ danh hiệu danh hiệu Hoàng đế, chỉ còn là một vị Vương chư hầu của đế quốc Mông-Nguyên. =
 
= Các nhà cai trị của [[nhà Triều Tiên]] ([[1392]]-[[1897]]) không dùng danh hiệu Hoàng đế mà chỉ xưng là "Triều Tiên Quốc vương" (조선국왕, 朝鮮國王 ''Chosŏn Kukwang''). Năm [[1895]], Triều Tiên tuyên bố độc lập hoàn toàn từ ảnh hưởng của [[nhà Thanh]] bên [[Trung Quốc]], tuy nhiên tước hiệu "Đại Quân chủ Bệ hạ" (대군주폐하, 大君主陛下, ''Taekunchu P'aeha'') của v[[Đế quốc Tu'i Tonga|ga]]. =
 
==Sử dụng trong tài liệu hư cấu==
Đã có nhiều hoàng đế hư cấu trong phim ảnh và sách. Để xem danh sách những hoàng đế này, xem
 
= Đã có nhiều hoàng đế hư cấu trong phim ảnh và sách. Để xem danh sách những hoàng đế này, xem [[:Category:Hoàng đế và nữ hoàng hư cấu|Danh mục hoàng đế và nữ hoàng hư cấu]]. =
 
==Danh hiệu của người thân thích==
* Bà nội gọi là [[Hoàng thái hậu|Thái hoàng thái hậu]].
 
* Cha của Hoàng đế, nếu đã từng làm hoàng đế hoặc không và còn sống, gọi là [[Thái thượng hoàng]].
= Bà nội gọi là [[Hoàng thái hậu|Thái hoàng thái hậu]]. =
* Mẹ là [[Hoàng thái hậu]].
 
* Chị,em gái là [[Công chúa|Trưởng công chúa]].
= Cha của Hoàng đế, nếu đã từng làm hoàng đế hoặc không và còn sống, gọi là [[Thái thượng hoàng]]. =
* Chú là [[Hoàng thúc]].
 
=* Mẹ là [[HoàngCông tháichúa|Thái hậutrưởng công chúa]]. =
* Vợ chính của hoàng đế là [[Hoàng hậu]].
 
* Thiếp của Hoàng đế là [[Hoàng phi]]. Hoàng phi gồm nhiều cấp bậc, thường gồm 2 cấp bậc chính là ''Phi'' và ''Tần'', VD: Nguyên phi, Quý phi, Hy tần, Thục tần,....;
= Chị,em gái là [[Công chúa|Trưởng công chúa]]. =
* Con trai là [[Hoàng tử]], con dâu là [[Công nương]] (phương Tây) hoặc [[Hoàng tử phi]] (Trung Quốc, Triều Tiên).
 
* Con trai kế vị là [[Thái tử|Hoàng thái tử]], vợ gọi là ''Hoàng thái tử phi'' hay ''Thái tử phi''.
= Chú là [[Hoàng thúc]]. =
* Con gái là [[Công chúa]]; con rể là [[Phò mã]].
 
= Cô là [[Công chúa|Thái trưởng công chúa]]. =
 
= Vợ chính của hoàng đế là [[Hoàng hậu]]. =
 
= Thiếp của Hoàng đế là [[Hoàng phi]]. Hoàng phi gồm nhiều cấp bậc, thường gồm 2 cấp bậc chính là ''Phi'' và ''Tần'', VD: Nguyên phi, Quý phi, Hy tần, Thục tần,....; =
 
= Con trai là [[Hoàng tử]], con dâu là [[Công nương]] (phương Tây) hoặc [[Hoàng tử phi]] (Trung Quốc, Triều Tiên). =
 
= Con trai kế vị là [[Thái tử|Hoàng thái tử]], vợ gọi là ''Hoàng thái tử phi'' hay ''Thái tử phi''. =
 
= Con gái là [[Công chúa]]; con rể là [[Phò mã]]. =
 
== Xem thêm ==
 
*[[Vương (tước hiệu)|Tước Vương]]
*[[Auctorita]]