Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nghệ thuật trừu tượng”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
→‎Thế kỉ XX: Sửa thông tin và tranh
Dòng 35:
 
Trường phái [[Hậu ấn tượng|Hậu Ấn tượng]] với các họa sĩ như [[Paul Gauguin]], [[Georges Seurat]], [[Vincent van Gogh]] và [[Paul Cézanne]] đã có một tác động rất lớn đối với mỹ thuật thế kỷ 20 và dẫn tới sự ra đời của trường phái trừu tượng của thế kỷ 20. Các tác phẩm để lại của các hoạ sĩ như [[Vincent van Gogh|Van Gogh]], [[Paul Cézanne|Cézanne]], [[Paul Gauguin|Gauguin]], và [[Georges Seurat|Seurat]] là tối quan trọng cho sự phát triển của mỹ thuật hiện đại. Vào đầu thế kỷ 20, [[Henri Matisse]] và một số nghệ sĩ trẻ [[tiền-Lập thể]] khác có thể kể đến như [[Georges Braque]], [[André Derain]], [[Raoul Dufy]] và [[Maurice de Vlaminck]] đã cách mạng giới nghệ thuật ở Paris với các bức vẽ "hoang dã", đa màu sắc, hàm xúc mà các nhà phê bình gọi là [[Trường phái dã thú|trường phái Dã thú]]. Với các màu sắc mạnh mẽ, những nét vẽ tự do và giàu tính tưởng tượng, [[Henri Matisse]] đã tiến rất gần với sự trừu tượng thuần túy qua các bức tranh ''Cửa sổ Pháp tại Collioure'' (1914), ''Góc nhìn từ Nhà thờ Đức bà'' (1914) và ''Bức rèm Vàng'' năm 1915. Ngôn ngữ ''thô'' của màu sắc như được phát triển bởi trường phải dã thú cũng trực tiếp ảnh hưởng một người tiên phong khác của trường phái trừu tượng, [[Wassily Kandinsky]] (xem tranh).
[[Tập tin:'Windows Open Simultaneously (First Part, Third Motif)' by Robert Delaunay.JPG|nhỏ|''Cửa số mở đồng loạt'', (phần đầu, motif thứ 3), vẽ bởi Robert Delaunay, sơn dầu trên voan. ]]
 
Mặc dù [[Lập thể|trường phái Lập thể]] rất phụ thuộc vào chủ thể, trường phái này, cùng với [[Trường phái dã thú|Dã thú]], là các phong trào nghệ thuật đã trực tiếp mở ra cánh cửa để bước tới trường phái trừu tượng trong thế kỷ 20. [[Pablo Picasso]] đã tạo ra những bức hoạ đầu tiên của ông dựa trên ý tưởng của [[Paul Cézanne|Cézanne]] rằng tất cả các mô tả về tự nhiên có thể được giản lược còn ba khối rắn: [[Khối lập phương|hình lập phương]] , [[hình cầu]] và [[hình nón]]. Với bức tranh ''Các cô gái ở Avignon (Les Demoiselles d'Avignon)'' (1907), Picasso đã mô tả trần trụi cảnh nhà thổ thô sơ với năm cô gái bán dâm. Ông vẽ các phụ nữ một cách bạo liệt, có thể gợi đến các [[mặt nạ thổ dân châu Phi]] và thể hiện sáng tạo [[Lập thể]] mới của ông. [[Lập thể|Lập thể phân tích]] được Pablo Picasso và Georges Braque cùng phát triển trong khoảng năm 1908 đến năm 1912. Trường phái [[Lập thể|Lập thể phân tích]] là biểu hiện rõ ràng đầu tiên của trường phái [[Lập thể]], theo sau đó là [[Lập thể|Lập thể tổng hợp]] với các họa sĩ Braque, [[Pablo Picasso|Picasso]], [[Fernand Léger]], [[Juan Gris]], [[Albert Gleizes]], [[Marcel Duchamp]] và một số người khác vào những năm 1920. [[Lập thể|Lập thể tổng hợp]] được đặc trưng bởi đi đầu trong sử dụng các kết cấu, bề mặt khác nhau, các yếu tố ''chắp nối'', kỹ thuật ''[[papier collé]]'' và các chủ đề hỗn hợp đa dạng. Dù cấu tạo từ các phần rời rạc hay chắp nối, nhưng khi tập hợp lại, chúng có thể tạo nên bức tranh ở một tầm mới. Một số họa sĩ ''chắp nối'' như [[Kurt Schwitters]] và [[Man Ray]] và một số họa sĩ khác lấy gợi ý từ trường phái Lập thể đã góp phần sự phát triển của phong trào mỹ thuật với tên gọi [[Dada]].
 
Nhà thơ người Ý [[Filippo Tommaso Marinetti]] xuất bản ''Tuyên ngôn về TươngVị lai'' (''Manifesto del Futurismo)'' vào năm 1909, cuốn sách sau đó đã truyền cảm hứng cho các nghệ sĩ như [[Carlo Carra]] trong bức ''Vẽ tranhgiữa tiếng động, tiếng ồn và mùi hôi''[[Umberto Boccioni]] Trainvới inbức Motion''Tàu chuyển bánh'', 1911, tới một giai đoạn trừu tượng hơn nữa, Cubismcùn với [[Lập thể|trường phái Lập thể]], những phong trào nghệ thuật này có ảnh hưởng sâu sắc khắp Châu Âu [16].
 
Trong năm 1912 ''Salon de la Section d'Or'' năm 1912, nhà thơ [[Guillaume Apollinaire]] đã đặt tên cho tác phẩm của nhiều họa sĩ ,trong đó có Robert, là [[trường phái óoc-fê]] (''Orphism'') [17]. Ông đã định nghĩa nó là, ''nghệ thuật vẽ các cấu trúc mới từ các phần tử không được mượnlấy từ hìnhtrường cầuthị giác, nhưng đã được tạo ra hoàn toàn bởi nghệcác họa sĩ ... đâymột nghệmỹ thuật thuần khiết'' [18].
 
Kể từ đầu thế kỷ XX20, các mối quan hệ văn hoá giữa các nghệhọacủagiữa các thành phố lớn ở châu Âu đã trở nên cực kỳ năng động khi họ cố gắng tạo ra một hình thức nghệ thuật tương đươngxứng với nguyện vọng cao củacho chủ[[Chủ nghĩa hiện đại|chủ nghĩa Hiện đại]]. Các ý tưởng có thể thụđược trao phấnđổi chéo bằngnhau cácqua sách vở, triển lãm và bảncác tuyênphát bốbiểu của các nghệhọa sĩ để nhiều nguồn mởcó thể được khơi ra đểcho thử nghiệm và thảo luận, giúp tạo cơ sở cho các phương thức trừu tượng đa dạng. Đoạn trích sau đây củatrong cuốn The''Nhìn Worldlại thế Backwardsgiới'' cho thấy một số ấn tượng về sự liên kết văn hoá vào thời điểm đó ấn tượng ra sao: "Kiến thức của [[David Burliuk]] về các phong trào nghệmỹ thuật hiện đại phảihẳn là rất mớicập mẻnhật, cho cuộc triển lãm Knave"Con ofBồi DiamondsRô" lần thứ hai vào tháng 1 năm 1912 (tổ chức ở Moscow) bao gồm không chỉ những bức tranh được gửi từ Munich, mà còn có tranh một số thành viên của nhóm ''Cây cầu (Die Brücke)'' của Đức, trong khi đótới từ Paris đến làmcác bức họa việcvẽ bởi Robert Delaunay, Henri Matisse và Fernand Léger, cũng như Picasso. TrongVào mùa xuân, [[David Burliuk]] đã có bài giảng về chủ nghĩa Lập thể và ông đãlên đikế hoạch đăng các bài tranh biện trên báo, với ngân quỹ từ triển lãm "Con Bồi Rô". Ông ra nước ngoài vào tháng 5 và trở lại với quyết tâm đốicạnh đầutranh vớiấn nhânphẩm sựvới ''Niên almanacbiểu [[Der Blaue Reiter đã]]-''được xuất hiện từ các máy inbản khi ông còn ở Đức ". [ 19]
 
Từ năm 1909 đến năm 1913, nhiều tác phẩm thử nghiệm trongtrên việcđường tìm kiếm 'nghệ thuật thuần khiết' này đã được tạovẽ ra: bởi: [[Hilma af Klint]]; [[Francis Picabia]] đã vẽvới [[Caoutchouc|''Cao su'']], 1909, [20] ''Mùa Xuân'', 1912, [21] Những''Vũ điệu múamùa ở Springxuân'' [22] và The''Diễu Processionhành, Seville'', 1912;. [23] Wassily Kandinsky thì vẽ Untitled''Không đề'' (Tóm''Trừu tắttượng Watercolormàu nước đầu tiên''), 1910,. [24 ] František Kupka đã vẽ những tác phẩm Orphisttheo [[trường phái óoc-fê]], Discs''Đĩa ofcủa Newton'' (Nghiên cứu cho Fuguetẩu trongpháp bằng hai màu), 1912 [26] và ''Amorpha, Fugue en deux'' [19] [sửa] Tham khảo Hồ Ngọc Đức, Free Vietnamese Dictionary Project (chi tiết) couleurs (Fugue trong hai màu), 1912; Roberto Delaunay đã vẽ một bứcloạt tranh có tựa đề Đồng''Cửa thờisổ Windowsmở đồng loạt''''Hình tròn Circles, Soleil n ° 2'' (1912-13); [27] [[Léopold Survage]] tạothì ravẽ ''Nhịp điệu màu'' (Nghiên cứu cho bộdùng phim), 1913; [28] [[Piet Mondrian,]] vẽ ''Tableau No. 1''''Sáng tác số 11'', 1913. [29]
 
== Nguồn gốc lịch sử ==