Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Takahata Isao”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 10:
| death_date = {{Death date and age|2018|4|5|1935|10|29|mf=y}}
| death_place = [[Tokyo]], [[Nhật Bản]]
| death_cause = [[Ung thư phổi]]
| education = [[Đại học Tokyo]]
| occupation = Đạo diễn, biên kịch, nhà sản xuất phim hoạt hình
Hàng 16 ⟶ 17:
{{Anime và manga}}
 
{{nihongo|'''Takahata Isao''' ([[tiếng Nhật]]: |高畑 勲)|hanviet=Cao Vườn (Huân||[[29 tháng 10]] năm [[1935]] – [[5 tháng 4]] năm [[2018]])}} là một đạo[[Đạo diễn phim|đạo diễn]], [[anime|hoạtnhà hìnhbiên Nhật Bảnkịch]] (''anime'') nổi[[nhà tiếngsản xuất phim]]. ÔngNăm 1985, ông đồng sáng lập [[Studio Ghibli]] với đồng nghiệpsự lâu năm [[Miyazaki Hayao]] cùng các cộng tác viên của đạoMiyazaki diễn [[MiyazakiSuzuki HayaoToshio]] và Tokuma ngườiYasuyoshi. đồngTakahata sángđã lậpgiành hãngđược sự hoan nghênh trên trường quốc tế với công việc đạo diễn của các bộ phim [[anime|hoạt hình [[GhibliNhật Bản]]., Bộnổi phimbật trong số đó là ''[[Mộ Đomđom đóm]]'' (1988), ''Hotaru[[Omohide noPoro hakaPoro|Chỉ hôm qua]]'' (1991), của''[[Pom TakahataPoko]]'' được(1994), coivà ''[[Gia đình nhà Yamada]]'' (1999). Bộ phim cuối cùng mà ông đạo diễnmột''[[Kaguya-hime trongno nhữngMonogatari|Chuyện bộnàng công chúa Kaguya]]'' (2013), được đề cử [[giải Oscar]] cho hạng mục [[Giải Oscar cho phim hoạt hình hay nhất|Phim củahoạt điệnhình ảnhhay thếnhất]] tại giới.<ref>[http://www.imdb.com/chart/animation[Giải BảngOscar xếplần hạngthứ phim87|Lễ hoạttrao hìnhgiải củaOscar IMDBlần thứ 87]]</ref>.
 
==Tiểu sử và sự nghiệp==
Ông qua đời tại bệnh viện Đại học Y Teikyo vào rạng sáng ngày 5 tháng 4 năm 2018 vì ung thư phổi, hưởng thọ 83 tuổi.<ref>{{cite web|url=http://www.ghibli.jp/info/012850/|title=高畑勲監督 訃報 (Cáo phó: Đạo diễn Takahata Isao)|date=ngày 6 tháng 4 năm 2018}}</ref>
===Những năm đầu sự nghiệp===
==Tiểu sử==
Takahata được sinh tại Ujiyamada (nay là [[Ise, Mie|Ise]]), [[Mie]], Nhật Bản, vào ngày 29 tháng 10 năm 1935, là con út trong một gia đình có bảy anh chị em và là con trai thứ ba.<ref name="WP obit">{{cite web|url=https://www.washingtonpost.com/local/obituaries/isao-takahata-poignant-japanese-director-who-co-founded-studio-ghibli-dies-at-82/2018/04/08/bdd05a58-3b3a-11e8-a7d1-e4efec6389f0_story.html|title=Isao Takahata, poignant Japanese director who co-founded Studio Ghibli, dies at 82|publisher=The Washington Post|date=8 April 2018|author=Smith, Harrison}}</ref><ref name="KUP">{{cite web|language=Japanese|url=http://www.kyoto-up.org/archives/1931|publisher=Kyoto University Press|date=16 November 2013|title=〈特集〉高畑勲とその時代 ~『かぐや姫』を迎え撃つために~(2013.11.16)}}</ref>. Cha ông, Takahata Asajiro (1888–1984),<ref>{{cite web|url=https://www.myheritage.com/research/record-10182-2744306/extractRecordUrlPlaceholder|publisher=MyHeritage|title=Asajiro Takahata}}</ref> là một hiệu trưởng trường trung học cơ sở, đã trở thành giám đốc sở giáo dục quận Okayama sau chiến tranh.<ref name="KUP"/> Ngày 29 tháng 6 năm 1945, khi Takahata được 9 tuổi, ông và gia đình đã sống sót sau một cuộc không kích lớn của Hoa Kỳ tại [[thành phố Okayama]].<ref name="hwr obit">{{cite web | url = https://www.hollywoodreporter.com/news/isao-takahata-dead-studio-ghibli-founder-was-82-1100281 | title = Studio Ghibli Co-Founder Isao Takahata Dies at 82 | first= Gavin | last = Blair | date = April 5, 2018 | accessdate = April 6, 2018 | work = [[The Hollywood Reporter]] }}</ref><ref>{{cite web | work = [[Mainichi Shimbun]] | url = http://mainichi.jp/english/english/features/news/20150617p2a00m0na010000c.html | date = June 17, 2015 | title = Studio Ghibli film director Takahata reflected on war experience in 'Grave of the Fireflies' | archiveurl=https://web.archive.org/web/20150617122642/http://mainichi.jp/english/english/features/news/20150617p2a00m0na010000c.html | archivedate=June 17, 2015 | accessdate= June 17, 2015}}</ref>
Takahata sinh ra tại Ise, một thành phố nhỏ thuộc quận ''Mie'' nằm ở phía Nam đảo [[Đảo Honshu|Honshū]] Nhật Bản. Tốt nghiệp [[Đại học Tōkyō|Đại học Tokyo]] năm [[1959]], Takahata vào làm việc tại hãng phim hoạt hình ''Tōei Dōga'' (hãng phim ''Toei'' sau này) khi đó mới thành lập. Cũng tại đây, ông đã gặp Miyazaki, họa sĩ cho bộ phim đầu tay của ông ''Hols: Hoàng tử Thái Dương''. Bị hãng phim cho nghỉ việc sau thất bại về mặt doanh thu của bộ phim (tuy rằng đó là một thành công về mặt nghệ thuật), Takahata đã cùng Miyazaki rời khỏi hãng để rồi sau đó thành lập hãng phim Ghibli và cùng cộng tác trong rất nhiều tác phẩm sau này của hai người. Khác với hầu hết các đạo diễn phim hoạt hình Nhật Bản, Takahata không tham gia vẽ và cũng chưa từng tham gia làm phim hoạt hình trước khi trở thành một đạo diễn phim hoạt hình thực sự.
 
Takahata tốt nghiệp [[Đại học Tōkyō|Đại học Tokyo]] năm [[1959]] với tấm bằng cử nhân ngành Văn học Pháp. Trong thời gian ở trường, ông đã được xem bộ phim Pháp ''[[Le Roi et l'Oiseau]]'' (''Nhà vua và con chim nhại''), bộ phim đã khiến ông bắt đầu có hứng thú với hoạt hình.<ref name="ebert obit">{{cite web | url = https://www.rogerebert.com/balder-and-dash/why-do-fireflies-have-to-die-so-soon-a-tribute-to-isao-takahata-1935-2018 | title = “Why Do Fireflies Have To Die So Soon?”: A Tribute To Isao Takahata, 1935-2018 | first = Peter | last = Sobczynski | date = April 5, 2018 | accessdate = April 6, 2018 | website = RogerEbert.com }}</ref> Takahata quan tâm nhiều hơn đến hoạt hình như một phương tiện, và muốn viết và chỉ đạo cho các tác phẩm hoạt hình hơn là tự tạo ra những hình ảnh động.<ref name="nerdist horus">{{cite web | url = https://nerdist.com/takahata-textbook-the-great-adventure-of-horus-prince-of-the-sun/ | title = Takahata Textbook: The Great Adventure Of Horus, Prince Of The Sun | first = Kyle | last = Anderson | date = January 9, 2016 | accessdate = April 6, 2018 | work = [[The Nerdist]] }}</ref> Một người bạn gợi ý rằng ông nên nộp đơn xin một công việc chỉ đạo tại [[Toei Animation]]; Takahata đã vượt qua kỳ thi tuyển và được thuê làm trợ lý cho một số chương trình truyền hình và phim truyền hình của Toei—bao gồm ''[[Ōkami Shōnen Ken]]'' (Cậu bé người sói Ken), do [[Ōtsuka Yasuo]] làm cố vấn.<ref name="ebert obit"/><ref name="denofgeek takahata"/> Ōtsuka cuối cùng đã yêu cầu Takahata chỉ đạo một bộ phim hoạt hình của riêng mình; bộ phim đầu tiên của ông là ''[[Chuyến phiêu lưu vĩ đại của Hols, Hoàng tử Thái Dương]]'' (1968). Ōtsuka đóng vai trò Giám đốc Hoạt hình trong bộ phim, trong khi một nhân viên khác của Toei, [[Miyazaki Hayao]], đóng vai trò người diễn hoạt chính.<ref name="ebert obit"/> Mặc dù sau này được công nhận là một trong những tác phẩm định hình đầu tiên của hoạt hình Nhật Bản hiện đại,<ref name="nerdist horus"/> bộ phim là một thất bại về thương mại, và Takahata bị giáng chức.<ref name="hwr obit"/><ref name="ebert obit"/>
==Sự nghiệp==
Giai đoạn thành công nhất của Takahata gắn liền với hãng phim Ghibli, nơi ông đã thực hiện bốn bộ phim nổi tiếng với đề tài rất đa dạng: chiến tranh (''[[Mộ đom đóm|Mộ Đom đóm]]''), lãng mạn (''Ngày hôm qua'' - ''Omohide Poro Poro''), hài hước (''Gia đình nhà Yamada'') và phiêu lưu sinh thái (''Pom-Poko''), trong đó bộ phim ''Mộ đom đóm'' được nhà phê bình phim uy tín Roger Ebert đánh giá: "Đây là bộ phim hoạt hình nhân văn nhất mà tôi đã từng xem"<ref>[http://rogerebert.suntimes.com/apps/pbcs.dll/article?AID=/20000319/REVIEWS08/3190301/1023 Giới thiệu phim ''Mộ đom đóm'' của Roger Ebert]</ref>.
 
Không thể tìm được cơ hội thăng tiến tại Toei, Takahata rời xưởng phim này năm 1971, cùng với Miyazaki và [[Kotabe Yōichi]]. Takahata và Miyazaki đã đưa ra ý tưởng tạo ra một bộ phim hoạt hình dựa trên những câu chuyện về [[Pippi tất dài]]. Họ đã phát triển ý tưởng cùng với "A Production," một xưởng phim hoạt hình được thành lập bởi một cựu diễn hoạt viên khác của Toei, Kusube Daikichiro (công ty này sẽ trở thành [[Shin-Ei Animation]]). Takahata và Miyazaki đã phát triển một số bảng phân cảnh và đã bay sang Thụy Điển để chụp ảnh địa điểm, gặp gỡ tác giả của cuốn sách, [[Astrid Lindgren]], và đảm bảo bản quyền cho nhân vật. Tuy nhiên, họ không thể đạt được thỏa thuận với người giữ bản quyền, và buộc phải từ bỏ dự án.<ref name="denofgeek miyazaki">{{cite web | url = http://www.denofgeek.com/us/culture/hayao-miyazaki/241940/hayao-miyazakis-path-to-studio-ghibli | title = Hayao Miyazaki's Path to Studio Ghibli | first = Ryan | last = Lambie | date = January 5, 2018 | accessdate = April 6, 2018 | work = [[Den of Geek]] }}</ref><ref>{{cite web | url = https://nerdist.com/sketches-for-hayao-miyazakis-cancelled-pippi-longstocking-anime/ | title = Sketches For Hayao Miyazaki’s Cancelled Pippi Longstocking Anime | first = Kyle | last= Anderson |date = April 24, 2015 | accessdate = April 6, 2018 | work = [[The Nerdist]] }}</ref> Takahata và Miyazaki vẫn là cộng tác viên trong một số dự án phim hoạt hình khác trong suốt những năm 1970, bao gồm cả việc sản xuất loạt phim hoạt hình dài tập ''[[Lupin đệ tam]]'' theo yêu cầu của Ōtsuka, do xếp hạng kém của bộ phim.<ref name="denofgeek miyazaki"/> Takahata, Kotabe, và Miyazaki đã được xưởng phim Zuiyo Enterprise tiếp cận nhằm đặt hàng một loạt phim hoạt hình dài tập dựa trên tiểu thuyết ''[[Heidi]]'', với kết quả là loạt phim ''[[Heidi, cô bé vùng Alps]]'' (có kết hợp một số bản mẫu trước đó dành cho Pippi tất dài).<ref name="denofgeek miyazaki"/>
==Tác phẩm và phong cách làm phim==
[[Tập tin:Grave of the Fireflies DVDcover.jpg|trái|nhỏ|Bộ phim ''[[Mộ đom đóm|Mộ Đom đóm]]'', tác phẩm xuất sắc của Takahata]]
Takahata chịu ảnh hưởng từ [[chủ nghĩa hiện thực mới]] [[Ý]], nhà biên kịch [[Jacques Prévert]] và những bộ phim Pháp của trào lưu [[Làn sóng mới]] thập niên 1960. Chính Takahata đã trích dẫn bộ phim Ý nổi tiếng [[Kẻ cắp xe đạp]] như là tác phẩm đã tạo cảm hứng cho ông làm loạt phim hoạt hình ''Hành trình đi tìm mẹ'' (''Haha wo Tazunete Sanzenri'', dựa theo tiểu thuyết [[Những tấm lòng cao cả]] của [[Edmondo de Amicis]]). Chính những ảnh hưởng về mặt nghệ thuật này đã giúp cho những tác phẩm của Takahata trở nên khác biệt với phần lớn các bộ phim hoạt hình Nhật Bản khác vốn tập trung vào các yếu tố tưởng tượng. Trái ngược với họ, những bộ phim của ông có tính hiện thực cao và mang màu sắc của [[chủ nghĩa biểu hiện]].
 
Bộ phận sản xuất phim hoạt hình của Zuiyo được thành lập như một công ty con tên là Zuiyo Eizo, sau này trở thành [[Nippon Animation]], nơi mà Takahata và Miyazaki gia nhập.<ref name="ebert obit" /> Takahata tiếp tục làm việc tại Nippon trong khoảng một thập kỷ; tác phẩm của ông ở đó bao gồm một phiên bản chuyển thể của ''[[Anne tóc đỏ dưới chái nhà xanh (phim truyền hình năm 1979)|Anne tóc đỏ dưới chái nhà xanh]]'' năm 1979, một dự án khác có sự tương đồng về chủ đề với các bản phác thảo từ Pippi tất dài.<ref name="avclub obit" />
Ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện thực mới trong phim của Takahata có thể thấy rõ qua việc ông rất chú ý tới việc miêu tả chi tiết hiện thực xã hội. Những tập phim hoạt hình đầu tiên của ông trên truyền hình đều tập trung vào những sự việc thường ngày như đi nhà thờ, lau rửa chai lọ, hay công việc đồng áng một cách chi tiết. Tuy phần lớn tác phẩm của Takahata có bối cảnh là cuộc sống hiện thực, cũng có một vài ngoại lệ như bộ phim ''Hols: Hoàng tử Thái Dương'' (một bộ phim hoạt hình ca nhạc theo kiểu Disney nhưng mang màu sắc chính trị và u ám hơn), ''Pom Poko'' (bộ phim về đề tài môi trường với những chú chồn ''tanuki'' có phép thuật cố gắng giữ gìn đất đai của mình) và ''Gauche nghệ sĩ cello'' (bộ phim nói về một nghệ sĩ [[cello]] được sự giúp đỡ của thú rừng để thoát khỏi cuộc sống chật vật),
 
Khoảng năm 1981, Takahata rời Nippon để tham gia Telecom Animation Film Co., Ltd. (ngày nay được biết đến là Tokyo Movie Shinsha hoặc [[TMS Entertainment]]), nơi ông là trưởng bộ phận sản xuất một bộ phim hoạt hình dựa trên manga ''Jarinko Chie'', và một loạt phim truyền hình spinoff tiếp theo.<ref name="ebert obit" /> Khoảng năm 1982, Telecom đã đưa ra ý tưởng về bộ phim hoạt hình ''[[Little Nemo: Adventures in Slumberland|Nemo bé bỏng: Cuộc phiêu lưu đến Xứ sở mộng đẹp]]'', chuyển thể từ bộ truyện tranh ''[[Nemo bé bỏng]]'', kết hợp sự chỉ đạo chung về kĩ thuật hoạt hình giữa Nhật Bản và Hoa Kỳ. Mặc dù cả Takahata và Miyazaki đều tham gia, họ đã chọn rời khỏi dự án và cả Telecom vì sự bất đồng về hướng chỉ đạo dự án giữa Nhật Bản và Hoa Kỳ.<ref name="avclub obit">{{cite web| url = https://news.avclub.com/r-i-p-isao-takahata-co-founder-of-studio-ghibli-and-d-1825035306 | title = R.I.P. Isao Takahata, co-founder of Studio Ghibli and director of Grave Of The Fireflies | first= William | last= Hughes |date = April 5, 2018 | accessdate = April 6, 2018 | work = [[The A.V. Club]] }}</ref>
Một trong những bộ phim được đánh giá cao nhất của Takahata là ''Ngày hôm qua'' (''Omohide Poro Poro'') phát hành năm 1991 và được giới phê bình khen ngợi. Tuy là phim hoạt hình, nhưng đối tượng khán giả chính của phim này lại là người lớn. Bộ phim xoay quanh Taeko, một phụ nữ độc thân làm công việc bàn giấy ở Tokyo đang đi nghỉ ở nông thôn trong gia đình người chị dâu làm nghề nông. Trong kì nghỉ của mình, Taeko đã tìm lại được chính mình khi hồi tưởng lại tuổi trẻ khi cô còn là một cô nữ sinh đang lớn vào năm 1966. Vừa tìm lại quá khứ, cô cũng vừa phải cố gắng giải quyết những vấn đề của hiện tại như công việc và tình cảm.
 
===Studio Ghibli===
Chủ nghĩa biểu hiện trong những bộ phim của Takahata thường thể hiện qua những cảnh nhân vật tưởng tượng giữa đời thực. Ví dụ trong bộ phim ''Ngày hôm qua'', sau khi Taeko gặp lại mối tình đầu của mình, cô vừa chạy và vừa trôi mình vào bầu trời đỏ rực, cảnh phim kết thúc khi cô nhẹ nhàng hạ xuống giường và cắt cảnh bằng hình ảnh bên ngoài ngôi nhà của Taeko với một trái tim khổng lồ hiện lên từ cửa sổ.
Đồng thời với những sự kiện này, Miyazaki cũng đã có bộ phim đạo diễn đầu tay trong bộ phim ''[[Lâu đài Cagliostro]]'' có sự góp mặt của nhân vật ''Lupin III'' vào năm 1979, là một thành công về mặt phê bình.<ref name="denofgeek miyazaki"/> Lấy cảm hứng từ việc này, Miyazaki bắt đầu phát triển manga của mình, ''[[Kaze no Tani no Nausicaä (manga)|Nausicaä của Thung lũng gió]]'', và đạo diễn [[Kaze no Tani no Nausicaä (phim anime)|bộ phim chuyển thể năm 1984]] của nó, cũng là một thành công thương mại và phê bình.<ref name="denofgeek miyazaki"/> Miyazaki đã tiếp cận Takahata với ý tưởng đồng sáng lập studio hoạt hình của họ dựa trên sự thành công của ''Nausicaä''; [[Studio Ghibli]] sau đó được thành lập năm 1985 bởi Miyazaki, Takahata, và các cộng sự của Miyazaki là [[Suzuki Toshio]] và Tokuma Yasuyoshi.<ref name="denofgeek miyazaki"/>
 
Xưởng phim chủ yếu phát hành các bộ phim hoạt hình được đạo diễn bởi Miyazaki, với Takahata đảm nhiệm vai trò nhà sản xuất hoặc các vai trò khác. Takahata cũng đã đạo diễn nhiều bộ phim của Studio Ghibli. Tác phẩm đầu tiên của ông, ''[[Mộ đom đóm]]'', ra mắt năm 1988, được dựa trên [[Mộ đom đóm (truyện ngắn)|truyện ngắn bán tự truyện cùng tên]] của [[Nosaka Akiyuki]], nhưng Takahata cũng lấy cảm hứng từ những trải nghiệm của ông từ vụ đánh bom thành phố Okayama.<ref name="avclub obit"/> ''Mộ đom đóm'' nhận được sự hoan nghênh từ giới phê bình vì ảnh hưởng cảm xúc và các chủ đề phản chiến của nó, và được coi là bộ phim thành lập sự kính trọng trên trường quốc tế dành cho Studio Ghibli,<ref name="wapost obit">{{cite web | url = https://www.washingtonpost.com/news/comic-riffs/wp/2018/04/06/rip-how-isao-takahatas-haunting-war-masterpiece-changed-animation/ | title = RIP: How Isao Takahata’s haunting war masterpiece changed animation | first= Michael | last= Cavna |date =April 5, 2018 | accessdate = April 6, 2018 | work = [[The Washington Post]] }}</ref> và nhà phê bình phim uy tín Roger Ebert đã phát biểu, "Đây là bộ phim hoạt hình nhân văn nhất mà tôi đã từng xem."<ref>[http://rogerebert.suntimes.com/apps/pbcs.dll/article?AID=/20000319/REVIEWS08/3190301/1023 Giới thiệu phim ''Mộ đom đóm'' của Roger Ebert]</ref> Những bộ phim của Ghibli khác mà Takahata từng làm đạo diễn bao gồm ''[[Omohide Poro Poro|Chỉ hôm qua]]'' (1991) và ''[[Pom Poko]]'' (1994).<ref name="wapost obit"/> Ngoài đạo diễn và sản xuất, ông còn là chỉ đạo âm nhạc cho bộ phim của Miyazaki, ''[[Dịch vụ giao hàng của phù thủy Kiki (phim 1989)|Dịch vụ vận chuyển Kiki]]'' (1989).<ref name="avclub obit"/>
Những bộ phim của Takahata ảnh hưởng lớn tới sáng tác của người đồng nghiệp Miyazaki Hayao, nhà làm phim ''Yasuo Ōtsuka'' đã kể lại rằng Miyazaki đã ý thức được trách nhiệm với những vấn đề xã hội thông qua Takahata và rằng nếu không có Takahata, Miyazaki chắc chắn sẽ chỉ tập trung vào những chất liệu lấy từ truyện tranh.<ref>Ōtsuka Yasuo no Ugokasu Yorokobi DVD. Studio Ghibli. 2004.</ref>.
 
=== Cuộc đời sau này và qua đời ===
Takahata tuyên bố ông sẽ đảm nhiệm vai trò đạo diễn cho một bộ phim cuối cùng cho Studio Ghibli, ''[[Kaguya-hime no Monogatari|Chuyện nàng công chúa Kaguya]]'' (''Kaguya-hime no Monogatari'', 2013), cùng khoảng thời gian mà Miyazaki cũng tuyên bố kế hoạch nghỉ hưu của ông với xưởng phim.<ref name="denofgeek takahata">{{cite web | url = http://www.denofgeek.com/uk/movies/isao-takahata/34607/isao-takahatas-contribution-to-studio-ghibli | title = Isao Takahata's contribution to Studio Ghibli | first = Ryan |last = Lambie | date = March 20, 2015 | accessdate = April 6, 2018 | work = [[Den of Geek]] }}</ref><ref name="wired interview">{{cite web | url = http://www.wired.co.uk/article/isao-takahata-interview | title = Studio Ghibli's Isao Takahata on animating his final film |first = Matt | last = Kamen | date = March 19, 2015 | accessdate= April 6, 2018 | work = [[Wired UK]] }}</ref> Khi bộ phim tiếp cận các thị trường phương Tây vào năm sau, nó đã nhận được đề cử [[Giải Oscar cho phim hoạt hình hay nhất|Phim hoạt hình hay nhất]] tại [[Giải Oscar lần thứ 87|Lễ trao giải Oscar lần thứ 87]].<ref>{{cite web | url = http://www.bbc.com/news/world-asia-43664515 | title = Studio Ghibli co-founder Isao Takahata dies at 82 | date = April 6, 2018 | accessdate = April 6, 2018 | work = [[BBC]] }}</ref> Takahata tiếp tục làm việc tại Ghibli, đảm nhiệm vai trò nhà sản xuất nghệ thuật cho ''[[Rùa đỏ (phim hoạt hình)|Rùa đỏ]]'' (2016), bộ phim đầu tiên có sự hợp tác của nhà diễn hoạt và đạo diễn người Hà Lan [[Michaël Dudok de Wit]] với Ghibli. Bộ phim ra mắt vào tháng 9 năm 2016.<ref>{{cite web|title= Studio Ghibli Co-Produced Film The Red Turtle Opens Next September|url= http://www.animenewsnetwork.com/news/2015-12-11/studio-ghibli-co-produced-film-the-red-turtle-opens-next-september/.96375|publisher= Anime News Network|date=2015-12-11}}</ref><ref>{{Cite web | url = https://www.telegraph.co.uk/films/0/red-turtle-japanese-animated-classic-made-north-london/ | title = The Red Turtle: how a Japanese animated classic was made in a North London shed | first= Robbie | last= Collins | date = May 26, 2017 | accessdate = April 6, 2018 | work = [[The Daily Telegraph|The Telegraph]] }}</ref>
 
Takahata đã được chẩn đoán bị ung thư phổi và qua đời ngày 5 tháng 4 năm 2018 tại một bệnh viện ở Tokyo, ở tuổi 82.<ref>{{Cite news|url=https://headlines.yahoo.co.jp/hl?a=20180406-00000503-sanspo-ent|title=高畑勲氏が死去…昨年夏頃に体調崩し入退院を繰り返す(サンケイスポーツ) - Yahoo!ニュース|work=Yahoo!ニュース|access-date=2018-04-05|language=ja-JP}}</ref><ref>{{Cite web|url=http://time.com/5230419/isaotakahata-studio-ghibli-died/|title=Isao Takahata, Co-Founder of Japan's Studio Ghibli, Has Died|work = [[Time (tạp chí)|Time]] | first = Eli | last = Meixler |accessdate= April 6, 2018 | date = April 5, 2018}}</ref><ref name="WP obit"/>
 
==TácẢnh phẩmhưởng và phong cách làm phim==
Takahata chịu ảnh hưởng từ [[chủ nghĩa hiện thực mới]] [[Ý]], các tác phẩm của [[Paul Grimault]], một nhà diễn hoạt người Pháp, cũng như nhà biên kịch [[Jacques Prévert]] và nhữngcác bộđạo phimdiễn Pháp của trào lưuthuộc [[Làn sóng mới Pháp]], thậpbao niêngồm 1960[[Jean-Luc Godard]].<ref name="denofgeek takahata"/> Chính Takahata đã trích dẫn bộ phim Ý nổi tiếng [[Kẻ cắp xe đạp]] như là tác phẩm đã tạo cảm hứng cho ông làm loạt phim hoạt hình ''Hành trình đi tìm mẹ'' (''Haha wo Tazunete Sanzenri'', dựa theo tiểu thuyết [[Những tấm lòng cao cả]] của [[Edmondo de Amicis]]). Ông cũng chịu ảnh hưởng từ đạo diễn người Pháp [[Frédéric Back]], bao gồm các tác phẩm ''Croc!'' và ''[[Người trồng cây (phim)|Người trồng cây]]''.<ref name="wired interview"/> Chính những ảnh hưởng về mặt nghệ thuật này đã giúp cho những tác phẩm của Takahata trở nên khác biệt với phần lớn các bộ phim hoạt hình Nhật Bản khác vốn tập trung vào các yếu tố tưởng tượng. Trái ngược với họ, những bộ phim của ông có tính hiện thực cao và mang màu sắc của [[chủ nghĩa biểu hiện]].
Ông cảm thấy điều quan trọng là có thể đạt được ''[[trompe-l'œil]]'', ảo giác ba chiều sử dụng một phương tiện hai chiều.<ref name="wired interview"/>
 
Ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện thực mới trong phim của Takahata có thể thấy rõ qua việc ông rất chú ý tới việc miêu tả chi tiết hiện thực xã hội. Những tập phim hoạt hình đầu tiên của ông trên truyền hình đều tập trung vào những sự việc thường ngày như đi nhà thờ, lau rửa chai lọ, hay công việc đồng áng một cách chi tiết. Tuy phần lớn tác phẩm của Takahata có bối cảnh là cuộc sống hiện thực, cũng có một vài ngoại lệ như bộ phimtrong ''Hols: Hoàng tử Thái Dương'' (một bộ phim hoạt hình ca nhạc theo kiểu Disney nhưng mang màu sắc chính trị và u ám hơn), ''Pom Poko'' (bộ phim về đề tài môi trường với những chú chồn ''tanuki'' có phép thuật cố gắng giữ gìn đất đai của mình) và ''Gauche nghệNghệ sĩ cello Gauche'' (bộ phim nói về một nghệ sĩ [[cello]] được sự giúp đỡ của thú rừng để thoát khỏi cuộc sống chật vật),.
 
Chủ nghĩa biểu hiện trong những bộ phim của Takahata thường thể hiện qua những cảnh nhân vật tưởng tượng giữa đời thực. Ví dụ trong bộ phim ''NgàyChỉ hôm qua'', sau khi Taeko gặp lại mối tình đầu của mình, cô vừa chạy và vừa trôi mình vào bầu trời đỏ rực, cảnh phim kết thúc khi cô nhẹ nhàng hạ xuống giường và cắt cảnh bằng hình ảnh bên ngoài ngôi nhà của Taeko với một trái tim khổng lồ hiện lên từ cửa sổ.
 
Các bộ phim của Takahata có ảnh hưởng lớn đến [[Miyazaki Hayao]], với nhà làm phim hoạt hình [[Ōtsuka Yasuo]] đã kể lại rằng Miyazaki đã ý thức được trách nhiệm với những vấn đề xã hội thông qua Takahata và rằng nếu không có Takahata, Miyazaki chắc chắn sẽ chỉ tập trung vào những chất liệu lấy từ truyện tranh.<ref>''Ōtsuka Yasuo no Ugokasu Yorokobi'' DVD. Studio Ghibli. 2004.</ref> Cũng giống như Miyazaki, Takahata và [[Michel Ocelot]] là những người ngưỡng mộ tác phẩm của nhau. Ocelot liệt kê các tác phẩm ''Mộ đom đóm'' và ''Pom Poko'' của Takahata trong những bộ phim yêu thích của ông.<ref>{{Cite journal| title = Bring Me Beauty | journal = Little White Lies | issue = 12: The ''Tales from Earthsea'' Issue | year = 2007}}</ref><ref>{{cite web | last = De Schrijver | first = Benjamin | title = Notes Isao Takahata lectures – Anima 2006 | publisher = benjaminds.blogspot.com | date = 10 March 2006 | archiveurl=https://web.archive.org/web/20070716095231/http://benjaminds.blogspot.com/2006/03/notes-isao-takahata-lectures-anima.html | archivedate=July 16, 2007 | url = http://benjaminds.blogspot.com/2006/03/notes-isao-takahata-lectures-anima.html | accessdate = 2015-10-26}}</ref>
 
==Tác phẩm chính==