Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chu Quý phi (Minh Anh Tông)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 13:
|spouse= [[Minh Anh Tông]]
|house= [[Nhà Minh]]
|posthumous name= <font color = "grey">Hiếu Túc Trinh Thuận Khang Ý Quang Liệt Phụ Thiên Thừa Thánh hoàng hậu</font><br>(肃贞顺肅貞順康懿光烈天承皇后)
|full name =
|date of birth = ?{{ngày sinh|1430|10|30}}
| nơi sinh = [[Xương Bình]], [[Bắc Kinh]]
|date of death = [[{{ngày mất và tuổi|1504]]|3|16|1430|10|30}}
|nơi mất = [[Tử Cấm Thành]], [[Bắc Kinh]]
|nơi an táng = [[Dụ Lăng]] (裕陵)
}}
'''Hiếu Túc hoàng thái hậu''' ([[chữ Hán]]: 孝肅皇太后; ?[[30 tháng 10]], [[1430]] - [[16 tháng 3]], [[1504]]), là [[phi tần]] của [[Minh Anh Tông]] Chu Kỳ Trấn, hoàng thái hậu sinh mẫu của [[Minh Hiến Tông]] Chu Kiến Thâm, tổ mẫu của [[Minh Hiếu Tông]] Chu Hữu Đường và Minh Duệ Tông [[Chu Hữu Nguyên]], tằng tổ mẫu của Minh Vũ Tông [[Chu Hậu Chiếu]] và [[Minh Thế Tông]] [[Chu Hậu Thông]].
 
Trong lịch sử triều Minh, bà là vị phi tần hạ sinh Hoàng đế kế vị đầu tiên, và cũng là [[Hoàng thái hậu]] có thân phận phi tần đầu tiên mà không được sách phong ngôi [[Hoàng hậu]] trước đó. Nhằm phân biệt với chính cung [[Hiếu Trang Duệ hoàng hậu]], [[thụy hiệu]] của bà không có Đế thụy ''Duệ'' của Anh Tông Duệ hoàng đế.
 
Bà cũng là [[Thái hoàng thái hậu]] hiếm hoi của triều đại này, kế nhiệm sau [[Thành Hiếu Chiêu hoàng hậu]] Trương thị, chính cung hoàng hậu của [[Minh Nhân Tông]].
 
== Tiểu sử ==
Hiếu Túc hoàng thái hậu mang [[họ Chu]] (周氏), sinh ngày [[14 tháng 10]] (âm lịch) năm Tuyên Đức thứ 5, xuất thân từ [[Xương Bình]]. Bà là con gái Cẩm y vệ tặng Ninh quốc công [[Chu Năng]] (周能), có em trai là Khánh Vân hầu [[Chu Thọ]] (周寿), Trường Ninh bá [[Chu Úc]] (周彧). Bấy giờ bà xuất thân hàn vi, vào cung làm [[cung nữ]], do có dung mạo xinh đẹp mà bà được Anh Tông sủng hạnh.
 
Năm Chính Thống thứ 11 ([[1446]]), bà sinh hạ [[Trọng Khánh công chúa]] (重慶公主), và đến năm thứ 12 ([[1447]]) thì sinh ra Hoàng trưởng tử [[Minh Hiến Tông|Chu Kiến Thâm]], là con trai trưởng của Anh Tông. Không lâu sau khi sinh, Chu Kiếm Thâm trở thành [[Hoàng thái tử]].
 
Năm Chính Thống thứ 14 ([[1449]]), xảy ra [[Sự biến Thổ Mộc bảo]], Minh Anh Tông bị bắt. Giữa lúc đó, [[Hiếu Cung Chương hoàng hậu|Tôn Thái hậu]] Tônlập thịThành lậpvương Chu Kỳ Ngọc lên ngôi, tức [[Minh Đại Tông|Cảnh Thái Đế]]. Dưới sức ép của Thái hậu, Cảnh Thái Đế vẫn để con trai bà làm [[Hoàng thái tử]], nhưng đến khi Anh Tông trở về và ở [[Nam Cung]], Chu Kiến Thâm bị phế. Năm Cảnh Thái thứ 6 ([[1455]]), bà sinh ra con trai thứ sáu của Anh Tông là [[Chu Kiến Trạch]] (朱见泽).
 
Năm [[Đinh Sửu]] ([[1457]]), Anh Tông phục vị, tấn phong Chu thị làm [[Quý phi]], địa vị chỉ sau [[Hiếu Trang Duệ hoàng hậu|Tiền hoàng hậu]]. Khi ở địa vị Quý phi, lại sinh ra Thái tử, Chu thị có vẻ xem thường Tiền hoàng hậu tàn phế. Có khi trước mặt Thái tử, đối với Hoàng hậu vô lễ khiến Anh Tông phải quát mắng, nhưng Tiền hoàng hậu lại khuyên nên lấy Thái tử làm trọng<ref>一日在太子前對皇后甚為無禮,英宗生氣呵斥她,錢皇后請曰:“請為太子留地”(見『罪惟錄』)</ref>.
 
== Thái hoàng triều Minh ==
Năm Thiên Thuận thứ 8 ([[1464]]), Minh Anh Tông băng hà, Thái tử Chu Kiến Thâm kế vị, tức [[Minh Hiến Tông]].
Năm [[1464]], [[Minh Hiến Tông]] kế vị, tôn Tiền hoàng hậu và Chu Quý phi làm [[Hoàng thái hậu]]. Bấy giờ xảy ra tranh cãi, một số cận thần hoạn quan khuyên Hiến Tông chỉ độc tôn Chu Quý phi làm Hoàng thái hậu; nhưng các Đại học sĩ [[Lý Hiền]] (李贤), [[Bành Lực]] (彭时) phản đối, kiến nghị cùng tôn ''Lưỡng cung Thái hậu''.
 
Hoàng đế tôn Tiền hoàng hậu và Chu Quý phi làm [[Hoàng thái hậu]]. Bấy giờ xảy ra tranh cãi, một số cận thần hoạn quan khuyên Hiến Tông chỉ độc tôn Chu Quý phi làm Hoàng thái hậu; nhưng các Đại học sĩ [[Lý Hiền]] (李贤), [[Bành Lực]] (彭时) phản đối, vì Tiền hoàng hậu là Hoàng hậu đích mẫu, không thể chỉ tôn Chu Quý phi một mình, nên kiến nghị cùng tôn ''"Lưỡng cung Thái hậu"''. Để tỏ rõ đích thứ khác biệt, triều thần dâng tôn hiệu cho Tiền Thái hậu là '''Từ Ý Hoàng thái hậu''', còn Chu Thái hậu không có tôn hiệu. Tuy vậy, Hiến Tông cực kì hiếu thuận mẹ đẻ, còn đối Tiền Thái hậu chỉ trên có lệ. Theo sử ghi lại, cứ hằng ngày đến thỉnh an, không việc gì mà Thái hậu yêu sách mà Hiến Tông dám không từ.
 
Năm Thành Hóa thứ 23 ([[14731487]]), [[tháng 4]], sau khi Tiền Thái hậu qua đời, Minh Hiến Tông tôn hiệu cho Chu Thái hậu thành '''Thánh Từ Nhân Thọ hoàng thái hậu''' (聖慈仁壽皇太后). Cùng năm đó, Hiến Tông băng hà, cháu trai bà là [[Minh Hiếu Tông]] Chu Hữu Đường kế vị, tôn Chu Thái hậu làm [[Thái hoàng thái hậu]], cực kỳ hiếu thuận.
 
Hiếu Tông đối Chu Thái hậu hiếu thuận, thậm chí còn phá cách triệu Sùng vương [[Chu Kiến Trạch]] ra vào thăm Thái hậu. Năm Hoằng Trị thứ 11 ([[1498]]), [[Thanh Ninh cung]] (清寧宮) bị sửa, dời sang [[Nhân Thọ cung]] (仁壽宮). Sau khi Thanh Ninh cung sửa xong, lại dời về.
 
Năm Hoằng Trị thứ 17 ([[1504]]), vào ngày [[1 tháng 3]] (âm lịch), Chu Thái hoàng thái hậu qua đời.
 
Bấy giờ bà là thân phận phi tần, dù sinh ra Hoàng đế nhưng thụy hiệu của bà cũng không có đế hiệuthụy '''Duệ''' (睿) của chồng, không như chánh thất [[Hiếu Trang Duệ hoàng hậu]] Tiền thị. Ban đầu, [[Minh Hiếu Tông]] không theo quy chế, sau do các [[Đại học sĩ]] tấu nghị bà bỏ chữ ''"Duệ"'' đi, như vậy [[thụy hiệu]] của bà viết đầy đủ là '''Hiếu Túc Trinh Thuận Khang Ý Quang Liệt Phụ Thiên Thừa Thánh Thái hoàng thái hậu''' (孝肃贞顺肅貞順康懿光烈天承聖太后). Tuy được hợp táng ở [[Dụ Lăng]], nhưng bà không được phối thờ ở [[Thái miếu]] mà ở một điện riêng biệt, để phân biệt ngôi thứ vậy, từ đó triều Minh theo lệ này, các Hoàng hậu vốn không phải đích thì thờ ở đấy.
Năm [[1473]], [[tháng 4]], sau khi Tiền Thái hậu qua đời, Minh Hiến Tông tôn hiệu cho Chu Thái hậu thành '''Thánh Từ Nhân Thọ hoàng thái hậu''' (聖慈仁壽皇太后).
 
Tuy được hợp táng ở [[Dụ Lăng]], nhưng bà không được phối thờ ở [[Thái miếu]] mà ở một điện riêng biệt ở [[Phụng Tiên điện]], để phân biệt ngôi thứ vậy, từ đó triều Minh theo lệ này, các Hoàng hậu vốn không phải đích thì thờ ở đấy.
Năm [[1487]], [[Minh Hiếu Tông]] Chu Hữu Đường kế vị, tôn Chu Thái hậu làm [[Thái hoàng thái hậu]], cực kỳ hiếu thuận. Năm [[1504]], vào [[tháng 3]], bà qua đời, không rõ bao nhiêu tuổi.
 
== Hậu duệ ==
Bấy giờ bà là thân phận phi tần, dù sinh ra Hoàng đế nhưng thụy hiệu của bà cũng không có đế hiệu '''Duệ''' (睿) của chồng, không như chánh thất [[Hiếu Trang Duệ hoàng hậu]] Tiền thị. Ban đầu, [[Minh Hiếu Tông]] không theo quy chế, sau do các [[Đại học sĩ]] tấu nghị bà bỏ chữ Duệ đi, như vậy [[thụy hiệu]] của bà viết đầy đủ là '''Hiếu Túc Trinh Thuận Khang Ý Quang Liệt Phụ Thiên Thừa Thánh hoàng hậu''' (孝肃贞顺康懿光烈辅天承圣皇后). Tuy được hợp táng ở [[Dụ Lăng]], nhưng bà không được phối thờ ở [[Thái miếu]] mà ở một điện riêng biệt, để phân biệt ngôi thứ vậy, từ đó triều Minh theo lệ này, các Hoàng hậu vốn không phải đích thì thờ ở đấy.
# [[Trọng Khang công chúa]] (重慶公主; 1446 - 1499), hạ giá lấy người ở [[An Dương]] là [[Chu Cảnh]] (周景), một thư sinh thích đọc sách được Anh Tông yêu quý. Thời Hiến Tông, đảm nhận Phủ sự phủ Tôn Nhân, hai vợ chồng đều sống rất vui vẻ. Có con trai tên [[Chu Hiền]] (周賢).
# [[Minh Hiến Tông]] Chu Kiến Thâm.
# [[Chu Kiến Trạch]] (朱见泽; 2 tháng 5, 1455 - 27 tháng 8, 1505), tước ''Sùng vương'' (崇王), thụy hiệu ''Giản'' (簡).
 
== Tham khảo ==
Hàng 50 ⟶ 57:
* [[Tư trị thông giám]]
 
{{hoàngHoàng hậu nhà Minh}}
 
[[Thể loại:Phi tần nhà Minh]]