Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Dolomit”
←Trang mới: “{{about|the rock and mineral}} {{Infobox mineral | name = Dolomit | category = Khoáng vật cacbonat | boxwidth = | boxbgcolor = | image =…” |
(Không có sự khác biệt)
|
Phiên bản lúc 16:16, ngày 20 tháng 2 năm 2011
Dolomit là tên một loại đá trầm tích cacbonat và là một khoáng vật, đều bao gồm CaMg(CO3)2 trong tinh thể.
Dolomit | |
---|---|
Dolomit và magnesit – Tây Ban Nha | |
Thông tin chung | |
Thể loại | Khoáng vật cacbonat |
Công thức hóa học | CaMg(CO3)2 |
Phân loại Strunz | 05.AB.10 |
Hệ tinh thể | Hệ tinh thể ba phương |
Nhóm không gian | Hình hộp mặt thoi 3 phương 3 |
Ô đơn vị | a = 4.8012(1) Å, c = 16.002 Å; Z = 3 |
Nhận dạng | |
Màu | Trắng, xám đến hồng |
Dạng thường tinh thể | Tinh thể hình khối, thường có các mặt cong, có thể ở dạng cột, thạch nhũ, khối hạt, khối lớn. |
Song tinh | Thường ở dạng song tinh tiếp xúc đơn giản |
Cát khai | Hoàn hảo ở mặt {1011}, cát khai hình hộp mặt thoi |
Vết vỡ | Vết vỡ vỏ sò |
Độ bền | Giòn |
Độ cứng Mohs | 3.5 đến 4 |
Ánh | Ánh thủy tinh đến ánh ngọc trai |
Màu vết vạch | Trắng |
Tỷ trọng riêng | 2.84–2.86 |
Thuộc tính quang | Đơn trục (-) |
Chiết suất | nω = 1.679–1.681 nε = 1.500 |
Khúc xạ kép | δ = 0.179–0.181 |
Độ hòa tan | Tan ít trong dung dịch HCl loãng trừ khi ở dạng bột. |
Các đặc điểm khác | Có thể phát huỳnh quang trắng đến hồng dưới tia tử ngoại; phát quang do ma sát. |
Tham chiếu | [1][2][3][4] |
Đá dolomit được tạo nên phần lớn bởi khoáng vật dolomite. Đá vôi được thay thế một phần bởi dolomite được gọi là đá vôi dolomite. Dolomit lần đầu được mô tả vào năm 1791 bởi nhà tự nhiên học và địa chất người Pháp, Déodat Gratet de Dolomieu (1750–1801) cho việc phát hiện ra dãy Dolomite Alps ở phía bắc Italy.
Tính chất
Khoáng vật dolomite kết tinh ở hệ ba phương. Nó tạo thành tinh thể trắng, xám đến hồng, thường có hình cong mặc dù nó thường ở dạng khối lớn.. Nó có tính chất vật lí tương tự như tinh thể canxit, nhưng không hòa tan nhanh chóng trong dung dich HCl loãng trừ trường hợp đã bị vạch hoặc ở dạng bột. Độ cứng là 3.5 đến 4 và tỉ trọng là 2.85. Chiết suất nω = 1.679 – 1.681 và nε = 1.500. Song tinh khá phổ biến. Hỗn hợp rắn trong tự nhiên giữa dolomite và ankerit giàu sắt. Một lượng nhỏ sắt trong cấu trúc khiến cho tinh thể có màu vàng đến nâu. Mangan có thể thay thế trong cấu trúc tinh thể, có thể đến 3 phần trăm MnO. Hàm lượng mangan cao khiến cho tinh thể có màu hồng. Có thể hình thành một dải khoáng vật với kutnohorit giàu mangan. Chì và kẽm cũng có thể thay thế trong cấu trúc với magie.
Hình thành
Rất nhiều mỏ có thể tìm thấy trong niên đại địa chất, tuy nhiên khoáng vật này khá hiếm trong môi trường hiện đại. Việc làm nhân tạo dolomite trong phòng thí nghiệm đã được tiến hành nhưng chỉ ở điều kiện nhiệt độ lớn hơn 100 độ C (điều kiện điển hình ở các bồn trầm tích chon vùi), mặc dù rất nhiều dolomite trong các ghi chép địa chất có vẻ được hình thành ở điều kiện nhiệt độ thấp. Nhiệt độ cao có vẻ làm tăng tốc độ di chuyển của ion canxi và magie nên chúng có thể ở ví trí thích hợp của cấu trúc tinh thể trong một thời gian vừa phải. Điều đó cho thấy dolomit ít được hình thành ngày nay có thể do các yếu tố động năng của phân tử, túc là nhiệt độ.
Dolomit vẫn có thể tồn tại như là khoáng vật kết tủa trong những môi trường đặc biệt trên mặt đất ngày nay. Vào những năm 1950 và 1960, dolomite được tìm thấy hình thành ở các hồ nước mặn ở vùng Coorong ở South Australia. Tinh thể dolomite cũng xuất hiện ở các trầm tích sâu dưới đại dương, nơi mà hàm lượng hữu cơ cao.
Các nghiên cứu gần đây tìm thấy dolomite hình thành dưới điều kiện kị khí ở các phá nước mặn dọc bờ biển Rio de Janeiro ở Brazil. Một trường hợp thú vị được tìm thấy là sự hình thành dolomite ở trong thận của một con chó Dalmatian..[5] Điều này được cho rằng bởi các quá trình hóa học được gây ra bởi vi khuẩn. Dolomit có thể được hình thành trong những điều kiện này do sự tương tác của các loại vi khuẩn giảm sulfat..[cần dẫn nguồn]
Hiện nay cơ chế hình thành dolomite bởi vi khuẩn đang được nghiên cứu them.[6]
Dolomit được hình thành dưới nhiều điều kiên môi trường khác nhau và có thể có cấu trúc, kiến tạo, đặc điểm hóa học thay đổi. Dolomit được tìm thấy ngay nay khá khác biệt so với các mẫu dolomit tìm thấy trong các ghi chép địa chất, khiến cho các nhà nghiên cứu cho rằng môi trường dolomit hình thành trong quá khứ khác biệt nhiều so với các mẫu hình thành ngày nay.
Trong một thời gian dài, các nhà khoa học đã gặp nhiều khó khăn trong việc làm nhân tạo dolomite. Tuy nhiên, trong một nghiên cứu năm 1999, thong qua một quá trình hòa tan và tái kết tủa, hàm lượng dolomite đã được nhân tạo có thể đo được trong điều kiện nhiệt độ và áp suất thấp. [7]
Đảo san hô ngầm
Quá trình dolomite hóa canxit cũng xảy ra ở một độ sâu nhất định ở các đảo san hô nơi mà nước chưa bão hòa canxi cabonat nhưng bão hòa dolomite. Sự đối lưu tạo bởi thủy triều và dòng biển tăng cường thay đổi này. Các dòng nhiệt dịch tạo bởi núi lửa ở các đảo san hô ngầm cũng đóng vai trò rất quan trọng.
Sử dụng
Dolomit được dung làm đá trang trí, hỗn hợp xi măng, là nguồn magie oxit và trong quá trình Pidgeon để sản xuất magie. Nó là một loại đá trữ dầu quan trọng. Dolomit đôi khi được dung làm phụ gia trong luyện kim. Lượng lớn dolomite được dung trong việc sản xuất thủy tinh.
Trong nghệ thuật trồng hoa, dolomite và đá vôi dolomite được them vào đất để làm giảm tính axit và là nguồn cung cấp magie.
Xem thêm
Tham chiếu
- ^ Deer, W. A., R. A. Howie and J. Zussman (1966) An Introduction to the Rock Forming Minerals, Longman, pp. 489–493. ISBN 0-582-44210-9.
- ^ http://rruff.geo.arizona.edu/doclib/hom/dolomite.pdf Handbook of Mineralogy
- ^ http://webmineral.com/data/Dolomite.shtml Webmineral
- ^ http://www.mindat.org/min-1304.html Mindat data
- ^ Mansfield, Charles F. (1980): "A urolith of biogenic dolomite – another clue in the dolomite mystery", Geochimica et Cosmochimica Acta, v. 44, no. 6, pp. 829–839
- ^ http://www.the-conference.com/JConfAbs/5/1038.pdf Role of Sulfate Reducing Bacteria During Microbial Dolomite Precipitation as Deduced from Culture Experiments
- ^ Deelman, J.C. (1999): "Low-temperature nucleation of magnesite and dolomite", Neues Jahrbuch für Mineralogie, Monatshefte, Jg.1999, pp.289–302.