Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Người Ra Glai”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi |
|||
Dòng 33:
Cuộc sống của người Raglai truyền thống gần như chỉ thu hẹp trong khuôn khổ của các làng (''palơi/paley''). Mọi hàng hóa, vật dụng bên ngoài đều do những người dân tộc khác (Chăm, Kinh…) mang đến tận nhà, trao đổi tận rẫy nương. “Cuộc sống biệt lập khiến cho khối người này lưu giữ được nhiều hơn những đặc điểm truyền thống văn hoá cổ gần gũi với cư dân các hải đảo”[Trần Ngọc Thêm:1996/2004:56].▼
Theo tiêu chí về vị trí địa lý và quan hệ với những dân tộc khác, các nhà khoa học phân chia người Raglai thành hai nhóm: Raglai Bắc và Raglai Nam với quốc lộ 27 (từ Ninh Thuận lên Lâm Đồng) làm ranh giới. Cả hai nhóm Raglai Bắc và Raglai Nam đều quan hệ giao lưu văn hóa với các dân tộc chung quanh. Hình ảnh của người Chăm (''Chap/Cham''), người Êđê (''Rađê''), người Kinh (''Yuơn''), Chu ru (''Churu'') thường xuyên xuất hiện trong các sử thi, truyện kể, các câu nói vần (''đờp pacap''), thành ngữ, ca dao…của người Raglai. Đặc biệt gắn bó là quan hệ với người Chăm. Những dấu ấn của sự gắn bó chặt chẽ ấy thể hiện qua sự tương đồng, gần gũi Chăm-Raglai từ hình thức kinh tế đến phong tục, tập quán, lễ hội, tục ngữ, thành ngữ, thơ ca dân gian; từ các nhạc cụ cho đến trang
Ngày nay, phần lớn người Raglai sống gắn bó chủ yếu với vùng núi rừng. Họ thường không cư trú nơi thung lũng vì quan niệm đó là lối đi của ma quỉ, cũng không cư trú trên sống lưng những quả đồi vì đấy là đường đi của các thần. Chỉ nơi lưng chừng núi là không gian thuộc quyền sở hữu của con người.▼
Khu vực địa lý của người Raglai cũng có khá nhiều sông ngòi. Chỉ tính riêng ở vùng Khánh Sơn, Khánh Vĩnh - nơi tập trung người Raglai đông nhất (hơn 75%) trong tỉnh Khánh Hòa, có đến 48 con sông có chiều dài vài kilômét, trong đó 5 con sông dài trên 10 kilômét và hàng trăm con suối lớn nhỏ... Chính những con sông, dòng suối này cung cấp nguồn nước uống cho người, gia súc; cho việc tưới tiêu sản xuất.▼
Nông nghiệp nương rẫy là phương thức sản xuất chủ đạo với bắp và lúa là nguồn lương thực chính. Ngoài ra còn có các loại nông sản khác như đậu, khoai củ, hoa quả…Trâu, bò, heo, gà được nuôi thả phổ biến. Những hoạt động thủ công như đan lát, rèn, làm gốm …mặc dù thô sơ nhưng đủ đảm bảo cho sản xuất và sinh hoạt.▼
<> Giai Đoạn 1832
Hàng 301 ⟶ 282:
[[Bình Thuận]] (15.440 người) và
[[Lâm Đồng]] (1.517 người)
<ref name="TK">Ban chỉ đạo Tổng điều tra dân số và nhà ở trung ương. [http://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=512&idmid=5&ItemID=10798
Theo tiêu chí về vị trí địa lý và quan hệ với những dân tộc khác, các nhà khoa học phân chia người Raglai thành hai nhóm: Raglai Bắc và Raglai Nam với quốc lộ 27 (từ Ninh Thuận lên Lâm Đồng) làm ranh giới. Cả hai nhóm Raglai Bắc và Raglai Nam đều quan hệ giao lưu văn hóa với các dân tộc chung quanh, đặc biệt là với dân tộc Chăm.
==Đặc điểm kinh tế==▼
▲==Đặc điểm cư trú và kinh tế==
▲
▲
Trong xã hội người Raglai còn tồn tại [[chế độ mẫu hệ]], đàn ông sống trọn đời ở nhà vợ, con cái đều lấy họ mẹ, Thông thường con gái út trong gia đình được thừa hưởng tài sản, là có trách nhiệm lớn chăm sóc bố mẹ về tuổi già. Mẹ hay vợ là chủ nhà có quyền quyết định trong gia đình. Cô gái nếu ưng thuận chàng trai nào thì nói với bố mẹ lo lễ cưới chồng. Trong hôn nhân ngoài quyền của người mẹ, tiếng nói của ông cậu khá quan trọng. Người Raglai có nhiều dòng họ: Chamalea ([[tiếng Việt]] dịch là Mấu), Pi Năng (tiếng Việt dịch là ho, tieng viet là ho Cao), KaTơr (tiếng Việt dịch là ho nguyen), Ha Vâu (tiếng Việt dịch là Tro), Patauaxa (tiếng Việt dịch là Đá, Thạch,...), Pupu, Asah, Tala, Jack, Taing, Cao,... trong đó họ Chamalé là đông hơn cả. Mỗi họ đều có một sự tích, truyền thuyết kể về nguồn gốc của họ mình la nguoi raglai noi rieng dan toc noi chung.▼
▲Khu vực địa lý của người Raglai cũng có khá nhiều sông ngòi. Chỉ tính riêng ở vùng Khánh Sơn, Khánh Vĩnh - nơi tập trung người Raglai đông nhất (hơn 75%) trong tỉnh Khánh Hòa, có đến 48 con sông có chiều dài vài kilômét, trong đó 5 con sông dài trên 10 kilômét và hàng trăm con suối lớn nhỏ... Chính những con sông, dòng suối này cung cấp nguồn nước uống cho người, gia súc; cho việc tưới tiêu sản xuất.
▲Nông nghiệp nương rẫy là phương thức sản xuất chủ đạo với bắp và lúa là nguồn lương thực chính. Ngoài ra còn có các loại nông sản khác như đậu, khoai củ, hoa quả…Trâu, bò, heo, gà được nuôi thả phổ biến. Những hoạt động thủ công như đan lát, rèn, làm gốm …mặc dù thô sơ nhưng đủ đảm bảo cho sản xuất và sinh hoạt.
==Xã hội==
Xã hội truyền thống của người Raglai được cấu trúc theo dòng tộc và khu vực cư trú. Người Raglai sống quy tụ theo tộc họ. Trong tộc họ, trưởng họ có quyền quyết định những công việc lớn. Điển hình có bốn dòng họ chính:
* '''Chamalịa''' (có nghĩa là sợi dây máu - loại dây thừng to bằng ngón chân cái, rất dai, ruột đỏ như máu, đồng bào thường dùng dây đó để buộc, người Raglai do cho rằng màu đỏ là màu của sự xui rủi, là kiêng cữ nên gọi chệch thành họ Mấu)
* '''Pupur''' (có nghĩa là cái bếp, nay gọi thành họ Tro)
* '''Katơr''' (một loại cây lương thực, hạt nhỏ, người Kinh vẫn thường gọi là hạt bo bo, - gọi là họ Bo Bo)
* '''Pinãng''' (nghĩa là cau, nay gọi là họ Cau / họ Cao) (Theo Tô Đông Hải).
▲Trong xã hội người Raglai còn tồn tại [[chế độ mẫu hệ]], vẫn giữ tục “con gái bắt chồng”, đàn ông sống trọn đời ở nhà vợ, con cái đều lấy họ mẹ, Thông thường con gái út trong gia đình được thừa hưởng tài sản, là có trách nhiệm lớn chăm sóc bố mẹ về tuổi già. Mẹ hay vợ là chủ nhà có quyền quyết định trong gia đình. Cô gái nếu ưng thuận chàng trai nào thì nói với bố mẹ lo lễ cưới chồng. Trong hôn nhân ngoài quyền của người mẹ, tiếng nói của ông cậu khá quan trọng. Người Raglai có nhiều dòng họ: Chamalea ([[tiếng Việt]] dịch là Mấu), Pi Năng (tiếng Việt dịch là ho, tieng viet là ho Cao), KaTơr (tiếng Việt dịch là ho nguyen), Ha Vâu (tiếng Việt dịch là Tro), Patauaxa (tiếng Việt dịch là Đá, Thạch,...), Pupu, Asah, Tala, Jack, Taing, Cao,... trong đó họ Chamalé là đông hơn cả. Mỗi họ đều có một sự tích, truyền thuyết kể về nguồn gốc của họ mình la nguoi raglai noi rieng dan toc noi chung.
[[Tập tin:Raglai Dance @MaNoi-NinhThuan-Vietnam.jpg|thumb|300px|Điệu múa dân tộc Raglai, tại Nhà Văn hóa xã [[Ma Nới]], tỉnh [[Ninh Thuận]].]]
==Văn hóa==
Hàng 322 ⟶ 316:
[[Tập tin:Raglai house.jpg|thumb|Một căn nhà sàn kiểu Raglai.]]
Nhà sàn là nhà ở truyền thống của người Raglai. Từ nền đất đến nhà sàn không cao quá một mét.
Không có cá tính tộc người qua trang phục mà chịu ảnh hưởng khá đậm của các dân tộc trong cùng nhóm ngôn ngữ (như Chăm, Ê Đê...).
Hình ảnh của người Chăm (''Chap/Cham''), người Êđê (''Rađê''), người Kinh (''Yuơn''), Chu ru (''Churu'') thường xuyên xuất hiện trong các sử thi, truyện kể, các câu nói vần (''đờp pacap''), thành ngữ, ca dao…của người Raglai. Đặc biệt gắn bó là quan hệ với người Chăm. Những dấu ấn của sự gắn bó chặt chẽ ấy thể hiện qua sự tương đồng, gần gũi Chăm-Raglai từ hình thức kinh tế đến phong tục, tập quán, lễ hội, tục ngữ, thành ngữ, thơ ca dân gian; từ các nhạc cụ cho đến trang phục…
== Người Ra Glai có danh tiếng ==
|