Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Thời kỳ Chuyển tiếp thứ Ba của Ai Cập”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Trang mới: “{{Infobox Former Country||thumb||native_name=|conventional_long_name=Thời kỳ Chuyển tiếp thứ Ba của Ai Cập|common_name=Thời kỳ Chuyển tiếp t…”
 
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 11:
{{main|Vương triều thứ Hai Mươi Mốt của Ai Cập}}
 
[[Ramesses XI]] là vua cuối cùng của [[Vương triều thứ Hai Mươi của Ai Cập|Vương triều thứ 20]]. Triều đại của ông đã trở nên suy yếu, những tay [[tư tế]] thay nhau lũng đoạn triều chính, quyền lực của họ cực kỳ to lớn, ngôi vương giờ đây chỉ là hư vị. Các Đại tư tế của thần [[Amun]] tại [[Thebes, Ai Cập|Thebes]] mới thực sự là những người cai trị ở [[Thượng Ai Cập]]; trong khi đó ở phía bắc, [[Smendes]] đã kiểm soát toàn bộ [[Hạ Ai Cập]], lên ngôi tại [[Tanis]] ngay sau khi Ramesses băng hà, mở đầu cho [[Vương triều thứ Hai Mươi Mốt của Ai Cập|Vương triều thứ 21]]<ref>Kenneth Anderson Kitchen (1996), ''The Third Intermediate Period in Egypt (1100–650 BC),'' (tái bản lần thứ 3), Warminster: Aris & Phillips Limited, tr.531</ref>.
 
Vương triều thứ 21 trải qua 7 đời vua, tồn tại trong vòng 134 năm (từ 1077 - 943 TCN), tương ứng với thời gian mà nhà sử học [[Manetho]] gán cho vương triều này.
Dòng 18:
{{main|Vương triều thứ Hai Mươi Hai của Ai Cập|Vương triều thứ Hai Mươi Ba của Ai Cập}}
 
[[Thượng và Hạ Ai Cập]] đã được thống nhất dưới thời [[Vương triều thứ Hai Mươi Hai của Ai Cập|Vương triều thứ 22]] (943 TCN - 716 TCN), được sáng lập bởi pharaon [[Shoshenq I]] vào năm 945 TCN (hoặc 943 TCN). [[Shoshenq I]] là hậu duệ của tộc [[người Berber]] cổ đại đến từ Libya. Họ đã di cư vào Ai Cập vào thời kỳ Vương triều thứ 20, được gọi là ''Meshwesh''. Vương triều này còn được gọi là '''Vương triều Bubastite''' do các pharaon ngự tại thành phố [[Bubastis]], nhưng hầu hết các vua Bubastite đều được chôn cất tại [[Tanis]], thủ phủ cũ của [[Vương triều thứ Hai Mươi Mốt của Ai Cập|Vương triều thứ 21]]<ref>{{Chú thích web|url=https://www.academia.edu/245702/The_geographic_origins_of_the_Bubastite_Dynasty_and_possible_locations_for_the_royal_residence_and_burial_place_of_Shoshenq_I|title=The geographic origins of the ‘Bubastite’ Dynasty}}</ref>.
 
Điều này mang lại sự ổn định cho đất nước trong hơn một thế kỷ, nhưng sau khi [[Osorkon II]] qua đời, Ai Cập lại bị chia cắt thành "hai vùng đất": [[Shoshenq III]] tiếp tục cai trị Hạ Ai Cập và duy trì Vương triều thứ 22 trong khi [[Takelot II]], cháu nội của [[Osorkon II]] thành lập [[Vương triều thứ Hai Mươi Ba của Ai Cập|Vương triều thứ 23]] (880 TCN - 750 TCN). Tại Thebes, một cuộc nội chiến kéo dài giữa Takelot II và [[Pedubast I]] thuộc Vương triều thứ 23 và chỉ được giải quyết vào năm thứ 39 của vua [[Osorkon III]]. Vương triều thứ 23 cũng bị diệt vong vào khoảng hơn 40 năm sau đó bởi sử nổi lên của những nhà cầm quyền tại vùng Heracleopolis và Hermopolis.
Dòng 32:
{{main|Vương triều thứ Hai Mươi Lăm của Ai Cập}}
 
[[Piye]], con trai của [[Kashta]] đã khai sinh ra [[Vương triều thứ Hai Mươi Lăm của Ai Cập|Vương triều thứ 25]], được biết đến với tên gọi '''Vương triều''' '''Nubian''' hoặc [[Đế chế Kush|'''Đế chế''' '''Kush''']]. Các vua triều đại này đã cho khôi phục lại các đền đài tại Memphis, Karnak ...<ref>Charles Bonnet (2006), ''The Nubian Pharaohs,'' New York: The American University in Cairo Press, tr.142–154 ISBN 978-977-416-010-3</ref><ref>Cheikh Anta Diop (1974), ''The African Origin of Civilization'', Chicago, Illinois: Lawrence Hill Books, tr.219–221 ISBN 1-55652-072-7</ref> và thống nhất Ai Cập như thời kỳ [[Tân Vương quốc Ai Cập|Tân vương quốc]].
 
Vương triều thứ 25 kết thúc khi [[người Assyria]] tấn công Ai Cập. Những người kế vị của tiếp theo đã rút về quê hương, thành lập mọt vương quốc tại [[Napata]] và [[Meroe]]. Vương quốc Kush vẫn còn phát triển cực thịnh tới tận thế kỷ thứ 2 TCN.
Dòng 38:
== Kết thúc thời kỳ ==
Năm 656 TCN, [[Psamtik I]] chiếm Thebes và lên làm vua, lập ra [[Vương triều thứ Hai Mươi Sáu của Ai Cập|Vương triều thứ 26]]. Một lần nữa Ai Cập được yên ổn trở lại, gọi là '''Thời kỳ Saite'''. Thật không may rằng, một thế lực lớn mạnh khác đang trỗi dậy tại Cận Đông - [[Đế quốc Ba Tư]]. Vua cuối cùng [[Psametik III|Psamtik III]] chỉ trị vì 6 tháng trước khi ông phải đối mặt với Ba Tư. Psamtik III đã bị đánh bại và nhanh chóng trốn thoát đến [[Memphis (Ai Cập)|Memphis]], sau đó bị xử tử tại Susa, thủ phủ của vua Ba Tư [[Cambyses II]].
 
== Tham khảo ==
 
* Dodson, Aidan Mark (2001), ''Third Intermediate Period'' In ''The Oxford Encyclopedia of Ancient Egypt'', chỉnh sửa bởi Donald Bruce Redford, quyển 3, Oxford, New York, and Cairo: Oxford University Press and The American University in Cairo Press. tr.388–394.
* Kitchen, Kenneth Anderson (1996), ''The Third Intermediate Period in Egypt (1100–650 BC)'', Warminster: Aris & Phillips Limited.
* Myśliwiec, Karol. (2000), ''The Twighlight of Ancient Egypt: First Millennium B.C.E.'', dịch bởi David Lorton, Ithaca and London: Cornell University Press.
* Porter, Robert M., ''A Network of 22nd-26th Dynasty Genealogies'', JARCE 44 (2008), tr.153-157.
* Taylor, John H. (2000), ''The Third Intermediate Period (1069–664 BC)'', in ''The Oxford History of Ancient Egypt'', edited by Ian Shaw, Oxford and New York: Oxford University Press, tr.330–368.
 
== Chú thích ==
{{tham khảo}}
 
[[Thể loại:Cựu quốc gia Châu Phi]]
[[Thể loại:Cựu quốc gia quân chủ Châu Phi]]
[[Thể loại:Vương triều Ai Cập cổ đại]]
[[Thể loại:Thời kỳ Ai Cập]]