Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Sân khấu cổ truyền Việt Nam”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 4:
 
==Lịch sử hình thành==
Lịch sử ngànhNgành [[sân khấu Việt Nam]] được manhhình nhathành từ thời [[nhà Đinh]], khi nhà nước [[Đại Cồ Việt]] được thànhra lậpđời sau 1000 năm Bắc thuộc. [[Hoa Lư]] là kinh đô đầu tiên của nhà nước phong kiến tập quyền Việt Nam, là nơi khởi nguồn sản sinh nhiều giá trị văn hóa mang bản sắc Việt. Đây là nơi khai sinh ra dòng văn học viết<ref>[http://www.cpv.org.vn/cpv/Modules/Preview/PrintPreview.aspx?co_id=30374&cn_id=459820 Sắc thái thơ mỗi vùng Kinh đô xưa và nay]</ref> và cũng được xem là vùng đất tổ của nghệ thuật sân khấu điện ảnh Việt Nam với việc hình thành các bộ môn [[chèo]], [[tuồng]] và xiếc. [[Hoa Lư]] là quê hương của nghệ thuật sân khấu [[chèo]] mà người sáng lập là bà [[Phạm Thị Trân]], một vũ ca tài ba trong hoàng cung [[nhà Đinh]]. Đây là loại hình sân khấu được hình thành sớm nhất và tiêu biểu nhất của Việt Nam. Đại Việt sử ký toàn thư chép: Mùa thu Ất Dậu, nhân ngày kỷ niệm lên ngôi, [[Lê Đại Hành]] cho tổ chức hội đèn bơi thuyền, lấy tre làm núi giả, gọi là Nam Sơn. Để cho sứ giả nhà Tống sợ, vua cho ba nghìn quân sĩ có thích ở trán ba chữ “Thiên tử quân” oai phong lẫm liệt, mở cuộc thao diễn vĩ đại, đóng trò giả cùng với dân bơi thuyền, gióng trống hò reo, cắm cờ, làm như bày binh bố trận, để phô trương thanh thế. Và, vẫn dẫn sách trên: Vua Lê Đại Hành ngự giá chinh phạt [[Chiêm Thành]], bắt được hàng trăm ca kỹ ở kinh đô Chiêm quốc mang về nước, bắt họ múa hát vui chơi, đó là việc hình thành nghệ thuật kịch và xiếc. Các truyền thuyết lịch sử hát [[Tuồng]] cũng ghi rằng loại hình ngày hình thành vào thời [[Nhà Tiền Lê|Tiền Lê]] năm 1005, khi một kép hát người Tàu tên là [[Liêu Thủ Tâm]] đến [[Hoa Lư]] và trình bày lối hát xướng thịnh hành bên [[nhà Tống]] và được vua [[Lê Long Đĩnh]] thâu dụng, bổ làm phường trưởng để dạy [[cung nữ]] ca hát trong cung.<ref name="a">"Hát Bội". ''Thế giới Tự do'' Tập Tập X Số 8. Sài Gòn: Sở Thông tin Hoa Kỳ, 1961. tr 25</ref>
 
Trong [[chiến tranh Nguyên Mông-Đại Việt|cuộc chiến chống Nguyên Mông]], [[nhà Trần]] bắt được nhạc sĩ [[Lý Nguyên Cát]] người [[Nhà Tống|Nam Tống]] vốn là trưởng ban kịch ca trong quân đội Nguyên Mông. Lý Nguyên Cát phỏng theo [[tiếng Việt]] mà soạn ra các vở [[tuồng]] và huấn luyện người Việt diễn tuồng. Sang thời [[Trần Dụ Tông]], có người phường trò là [[Đinh Bàng Đức]] ở nhà Nguyên sang nương nhờ vì chiến tranh<ref>Những cuộc nổi dậy của người [[Trung Quốc]] chống sự cai trị của [[nhà Nguyên]], kết thúc năm 1368 với sự ra đời của [[nhà Minh]]</ref>. Đinh Bàng Đức dạy người Việt lối hát cầm gậy<ref>Trần Xuân Sinh, sách đã dẫn, tr 470</ref>. Nhảy múa thường xuyên được tổ chức trong cung đình và trong dân gian. Ngoài [[chèo]], hát [[ca trù|ả đào]] truyền thống khá phổ biến trong dân gian và giới quý tộc<ref name="THQ268"/>. Các quý tộc [[nhà Trần]] yêu thích [[hát chèo]] và diễn [[hề]]. Thời Trần Dụ Tông, các quý tộc trong cung đình say mê nghệ thuật, nhiều vở [[hát chèo]] trong cung đình do chính những người trong hoàng tộc dàn dựng, biểu diễn và nhà vua tự mình duyệt lại, thưởng hậu cho người diễn và làm trò giỏi<ref name="THQ268"/>. Việc ca hát trong cung đình nhà Trần được sứ [[nhà Nguyên]] là [[Trần Cương Trung]] mô tả trong tác phẩm ''Sứ giao tập'', theo đó mỗi lần yến tiệc trong cung thường có ca nhạc và nhảy múa, các khúc ca giống như khúc ''Giáng Châu Long'', ''Nhập hoàng đô'' của phương Bắc, âm điệu cổ nhưng ngắn hơn.