Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tiểu thừa”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 17:
# Truyền thống Bắc Tông và Nam Tông có những khác biệt, tuy nhiên, những khác biệt ấy không cơ bản. Trái lại, những điểm tương đồng lại rất cơ bản như sau:
## Cả hai đều nhìn nhận [[Ðức Phật Thích ca]] là bậc Ðạo sư.
## Cả hai đều chấp nhận và hành trì giáo lý [[Tứ diệu đế]], [[Bát chính đạo|Bát chánh đạo]], [[Duyên khởi]]...; đều chấp nhận pháp ấn [[Khổ (Phật giáo)|Khổ]], [[0 (số)|Không]], [[Vô ngã]]; đều chấp nhận con đường tu tập: [[Giới]]-[[Ðịnh]]-[[Tuệ]].
 
Tóm lại, Kinh tạng Nguyên Thủy, hiện nay có 5 bộ, là tập hợp những lời dạy nguyên thủy nhất của Đức Phật là kinh tạng ghi chép lại những lời Phật thuyết và Thánh chúng một cách đầy đủ nhất. Kinh tạng này mang tính thiết thực gần gũi với tâm lý con người và sự sinh hoạt của xã hội Ấn Độ. Ðây là cơ sở giáo lý mà chúng ta lấy làm nền tảng cho mọi nghiên cứu, thực tập. Không nên chê bai Tiểu Thừa hạ liệt, căn cơ yếu kém như tư tưởng trước thời thầy Thích Minh Châu dịch ra Bộ Kinh Nikaya (Kinh Nguyên Thủy - Kinh tạng P''ā''li).
 
Tuy nhiên, trải qua hơn 400 năm khẩu truyền và hơn 2000 năm truyền bá, kinh giáo không tránh khỏi sự thêm bớt của người thọthụ trì(?!), nghĩa là vẫn không mang tính Nguyên Thủy "thuần túy". Mặc dù vậy, Đạo Phật có Tứ Diệu Đế là chân lý rốt ráo cùng tột và 3 pháp ấn là 3 chân lý không thể nào chối cãi là "Các pháp hữu vi là Khổ, Vô Thường, Vô Ngã" và pháp vô vi là Vô Ngã. Người học Phật cần phải soi sáng mọi lời dạy (trong Kinh Nam Tông, Bắc Tông hay các tác giả viết sách về Đạo Phật) xem coi nó có mâu thuẫn với Tứ Diệu Đế và Tam Pháp Ấn hay không? Nếu mâu thuẫn thì nên cẩn thận trước những tư tưởng của người khác mà Kinh Kalama, Phật đã dạy trong Tăng Chi Bộ 10 điều chớ có tin:
 
''"- '''Như vậy, này các Kàlàmà, điều Ta vừa nói với các Ông: "'''''
Dòng 49:
Cũng như Đức Phật đã từng nhấn mạnh nhiều lần về sự khổ và diệt khổ, trong Kinh Ví Dụ Con Rắn, Trung Bộ Kinh: "Này các tỳ kheo, xưa cũng như nay, ta chỉ nói lên khổ và sự diệt khổ".
 
Đức Phật cũng nhấn mạnh vào Bát ChánhChính Đạo cần phải tu tập cho đúng nghĩa của nó:
''"Này Subhadda, trong pháp luật nào không có Bát Thánh Đạo, thời ở đấy không có đệ nhất Sa Môn, ở đấy không có đệ nhị Sa Môn, cũng không có đệ tam Sa Môn, cũng không có đệ tứ Sa Môn. Này subhaddaSubhadda trong pháp luật nào có Bát Thánh Đạo thời ở đấy có đệ nhất Sa Môn, đệ nhị Sa Môn, cũng có đệ tam Sa Môn, cũng có đệ tứ Sa Môn. Những hệ thống ngoại đạo khác đều không Sa Môn. Này suhadda, nếu những vị Tỳ kheo này sống chân chánh, thời đại này không vắng những vị A La Hán". (Kinh Trường Bộ tập I trang 659, kinh Đại Bát Niết Bàn)''
 
Hoặc như trong Tiểu Bộ Kinh – Samanabramana Sutta – Sa môn chân chánhchính – Phật Thuyết Như Vậy, Thích Minh Châu dịch Việt, Phật dạy:
''"Này các Tỳ kheo, những Sa môn và Bà la môn nào không hiểu biết như thật "Ðây là khổ", không hiểu biết như thật "Ðây là khổ nhân", không hiểu biết như thật "Ðây là khổ diệt", không hiểu biết như thật "Ðây là con đường đưa đến khổ diệt" thời này các Tỳ kheo, những Sa môn và Bà la môn ấy không được ta thừa nhận là Sa môn trong hàng Sa môn hay Bà la môn trong hàng Bà la môn, và các tôn giả ấy, ngay trong đời này, cũng không tự mình chứng đạt thắng trí và an trú trong sự thành tựu mục đích của Sa môn và Bà la môn."
''
Nghiên cứu kinh điển Phát triển (Kinh Bắc Tông)và các bài Kinh khác của Nam Tông mà không nắm vững hệ thống Nguyên thủy (Tứ Diệu Đế và 37 phẩm trợ đạo) thì rất thiếu sót, có thể dẫn đến sai lầm nghiêm trọng. Nếu coi Kinh tạng Nguyên thủy là "thấp kém" thì rất là sai lầm và nguy hiểm. Cây đại thọ giáo pháp phải là một cây hoàn hảo từ gốc rễ cho đến ngọn ngành. Tu sĩ Nam Tông và Bắc Tông cần phải lịch sự, khiêm tốn, nhã nhặn, thể hiện sự văn minh, tiếp thu ý kiến của nhau nếu có dịp cùng nhau đàm đạo Phật Pháp. Trên con đường thoát khỏi sự khổ đau, không nên phân cao thấp vì mục đích thắng thua cá nhân. Hãy biết tự tu tập để cứu mình và cứu người khác khỏi sự nghiệt ngã của Khổ Đế.
 
Nghiên cứu kinh điển Phát triển (Kinh Bắc Tông )và các bài Kinh khác của Nam Tông mà không nắm vững hệ thống Nguyên thủy (Tứ Diệu Đế và 37 phẩm trợ đạo) thì rất thiếu sót, có thể dẫn đến sai lầm nghiêm trọng. Nếu coi Kinh tạng Nguyên thủy là "thấp kém" thì rất là sai lầm và nguy hiểm. Cây đại thọ giáo pháp phải là một cây hoàn hảo từ gốc rễ cho đến ngọn ngành. Tu sĩ Nam Tông và Bắc Tông cần phải lịch sự, khiêm tốn, nhã nhặn, thể hiện sự văn minh, tiếp thu ý kiến của nhau nếu có dịp cùng nhau đàm đạo Phật Pháp. Trên con đường thoát khỏi sự khổ đau, không nên phân cao thấp vì mục đích thắng thua cá nhân. Hãy biết tự tu tập để cứu mình và cứu người khác khỏi sự nghiệt ngã của Khổ Đế.
== Phân chia bộ phái ==
Trong thời kỳ Đức Phật chuyển pháp luân và trước đại hội kết tập kinh điển lần thứ 2, đạo Phật không có tông phái nào. Đó là thời kỳ Đạo Phật Nguyên Thủy hay còn gọi là thuần túy. Trong lần kết tập thứ hai, Tăng-già phân ra thành hai phái: Trưởng lão bộ (zh. 長老部, sa. ''sthavira'') và Đại chúng bộ (zh. 大眾部, sa. ''mahāsāṅghika''). Giữa năm [[280 TCN|280]] và [[240 TCN|240]] trước Công nguyên, Đại chúng bộ lại được chia thành sáu phái: Nhất thuyết bộ (zh. 一說部, sa. ''ekavyāvahārika''), Khôi sơn trụ bộ (zh. 灰山住部, sa. ''gokulika''). Từ Nhất thuyết bộ lại sinh ra Thuyết xuất thế bộ (zh. 說出世部, sa. ''lokottaravāda''). Từ Khôi sơn trụ bộ lại tách ra 3 bộ phái là Đa văn bộ (zh. 多聞部, sa. ''bahuśrutīya''), Thuyết giả bộ (zh. 說假部, sa. ''prajñaptivāda'') và Chế-đa sơn bộ (zh. 制多山部, sa. ''caitika''). Từ Trưởng lão bộ (sa. ''sthavira'') của thời gian đó, khoảng năm 240 trước Công nguyên, phái Độc Tử bộ (zh. 犢子部, sa. ''vātsīputrīya'') ra đời, gồm có bốn bộ phái nhỏ là Pháp thượng bộ (zh. 法上部, sa. ''dharmottarīya''), Hiền trụ bộ (zh. 賢胄部, sa. ''bhadrayānīya''), Chính lượng bộ (zh. 正量部, sa. ''sāṃmitīya'') và Mật lâm sơn bộ (zh. 密林山部, sa. ''sannagarika'', ''sandagiriya''). Từ Trưởng lão bộ (sa. ''sthavira'') lại xuất phát thêm hai phái: 1. [[Thuyết nhất thiết hữu bộ]] (zh. 說一切有部, sa. ''sarvāstivāda''), từ đây lại nảy sinh Kinh lượng bộ (zh. 經量部, sa. ''sautrāntika'') khoảng năm [[150 trước Công nguyên]] và 2. Phân biệt bộ (zh. 分別部, sa. ''vibhajyavāda''). Phân biệt bộ tự xem mình là hạt nhân chính thống của Trưởng lão bộ. Từ Phân biệt bộ này sinh ra các bộ khác như Thượng toạ bộ (zh. 上座部; pi. ''theravāda''), Hoá địa bộ (zh. 化地部, sa. ''mahīśāsaka'') và Ẩm Quang bộ (zh. 飲光部; cũng gọi Ca-diếp bộ 迦葉部, sa. ''kāśyapīya''). Từ Hoá địa bộ (sa. ''mahīśāsaka'') lại sinh ra Pháp Tạng bộ (zh. 法藏部, sa. ''dharmaguptaka'').
Hàng 63 ⟶ 62:
Tiểu thừa được phát triển mạnh nhất từ khi Phật nhập [[Niết-bàn]] đến Công nguyên. Đại biểu phái này cho rằng mình theo sát những lời dạy nguyên thủy của Đức Phật, do chính Đức Phật nói ra. Giới luật của Tiểu thừa hoàn toàn dựa vào [[Luật tạng]]. Trong [[A-tì-đạt-ma]], Tiểu thừa dựa trên [[Kinh (Phật giáo)|Kinh tạng]] để phân tích và hệ thống hoá giáo lý của Phật.
 
Tiểu thừa tập trung tuyệt đối vào con đường đi đến giải thoát Niết Bàn. Tiểu thừa phân tích rõ trạng thái của đời sống con người, bản chất sự vật, cơ cấu của chấp ngã và chỉ ra phương pháp giải thoát khỏi sự [[Khổ (Phật giáo)|Khổ]] (sa. ''duḥkha''). Tất cả các trường phái Tiểu thừa đều có một quan điểm chung về sự vật đang hiện hữu: khổ có thật, phải giải thoát khỏi cái Khổ. Giải thoát khỏi [[luân hồi]] (sa., pi. ''saṃsāra''), thoát khỏi sự tái sinh và đạt [[Niết-bàn]] (sa. ''nirvāṇa'') là mục đích cao nhất của Tiểu thừa. Muốn đạt được mục đích này, hành giả phải dựa vào sức mình, độc cư thiền định (Tứ Thiền) và thiềnThiền tuệTuệ (Tứ Niệm Xứ). Vì vậy, Tiểu thừa quan niệm phải sống viễn li, sống cuộc đời của một bậc tu hành chân chính thanh cao, phạm hạnh đầy đủ, làm gương cho các tu sĩ đời sau. Đối với Tiểu thừa, cuộc sống tại gia khó đưa đến sự giải thoát rốt ráo, nghĩa là đạt đến A la hán,. điềuĐiều này là noi gương theo phạm hạnh của Đức Phật (Đức Thế Tôn) cũng đã xuất gian. Tiểu thừa cũng chấp nhận tại gia, trong Kinh Đại bát Niết Bàn, Trường Bộ Kinh và các bài Kinh khác thuộc Nikaya, tỳ kheo Thích Minh Châu dịch thì các vị tại gia vẫn chứng đắc được Đạo Quả rất nhiều. Hình ảnh tiêu biểu của Tiểu thừa là [[A-la-hán]] (sa. ''arhat''), là người dựa vào tự lực tu tập để giải thoát, chứng Niết Bàn giống Phật Thích Ca. Tiểu thừa khăng khăng "bảo thủ" nguyên xi lời Phật mà không ủng hộ "phát triển" thêm lời của Phật, tức là họ không chấp nhận sáng tác Kinh Điển. Tức là Tiểu Thừa không đồng tình với việc "sáng tạo" ra Kinh Đại Thừa rồi gán ghép là lời của Phật nói. Quan điểm như vậy nên người ta cho rằng họ là tiểu thừa, chẳng biết tiếp thu học hỏi giáo lý khác. Đây là sự việc chính gây ra xung khắc đại tiểu. Người học Phật nên nghiên cứu kỹ càng về Kinh của 2 truyền thừa nếu muốn có cái đánh giá đúng đắn, khách quan về 2 thừa. Không nên vì tình cảm, cảm tính cá nhân mà có những lời lẽ sai trái.
Niết-bàn đối với Tiểu Thừa là sự đoạn tận tham sân si, thoát khỏi tái sanh luân hồi đau khổ. Mục đích cuối cùng, là kinh nghiệm của sự giác ngộ (phẩm vị A la hán),. trongTrong đó, hành giả chứng được vô ngã và từ bỏ tham ái, không còn tái sanh chịu khổ, từ bỏ mọi dính mắc hữu vi và vô vi (Niết Bàn). Đối với Tiểu thừa, Phật là một nhân vật lịch sử, được xem là một con người từ phàm nhân tu thành Phật và là thầy dạy, không phải là hoá thân của một thật thể nào, đối chọi với tư tưởng Tam Thân Phật. Giáo pháp cùng tột của Tiểu thừa gồm có [[Tứ diệu đế]], [[Duyên khởi]] (sa. ''pratītyasamutpāda''), [[Vô ngã]] (sa. ''anātman'') và luật nhân quả, [[Nghiệp (Phật giáo)|Nghiệp]] (sa. ''karma''), 37 phẩm trợ đạo, Ngũ Uẩn, 12 xứ, 18 giới v... Phép tu hành của Tiểu thừa dựa trên [[Bát chính đạo]], mở rộng ra là 37 phẩm trợ đạo được giảng dạy trong ''Kinh Nikaya'', dùng để tu chứng nghiệm Tứ Diệu Đế. Theo quan điểm riêng của Đại thừa (Cỗ Xe Lớn), sở dĩ phái này được gọi là "tiểu thừa" (Cổ Xe Nhỏ) vì—ngược lại với chủ trương của Đại thừa là nhằm đưa tất cả loài [[hữu tình]] đến giác ngộ thành Phật giống Phật Thích Ca —phái Tiểu thừa chỉ quan tâm đến sự giác ngộ của cá nhân mình. Chủ trương này xem tiểu thừa là giáo pháp sơ cấp của Phật vì sau đó Phật giảng giáo pháp toàn vẹn hơn, cao cấp hơn là giáo pháp Đại thừa. Tuy nhiên, quan điểm này cần phải xem xét lại thật cẩn thận vì nếu như tiểu thừa có ích kỷ chỉ lo giác ngộ cá nhân mình thì làm sao ngày nay Tam Tạm Kinh Điển Pali (Nikaya) còn tồn tại và lưu truyền cho đến ngày nay ? Kinh Tiểu thừa còn được dịch thuật sang Tiếng Anh, Tiếng Miến, Tiếng Việt, Tiếng Thái, Tiếng Camphuchia, Tiếng Tích Lan...? Nếu cho rằng tiểu thừa là giáo pháp sơ cấp là nên xem xét lại vì mục đích của Đạo Phật là Niết Bàn. Điều này được minh chứng là Phật Thích Ca cũng đã đạt Niết Bàn và khám phá ra Tứ Diệu Đế dạy lại cho các đệ tử Thanh Văn. Lại nữa, nếu như lý luận tiểu thừa là sơ cấp mà người ấy không đạt sơ cấp thì làm sao đạt cao cấp? Cho nên có nhiều mâu thuẫn, không hợp lý thực tế nếu như còn chê bai Tiểu Thừa. Người tu sĩ cả Nam Tông và Bắc Tông nên khiêm tốn, lịch sự, văn minh khi có dịp đàm đạo với nhau, cùng nhau tiến bộ, nên ôn hòa đàm đạo xây dựng con đường cứu mình và cứu người. Không nên khinh rẻ xem thường nhau là phạm vào giới luật.
 
==Xem thêm==