Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nguyễn Du”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n Đã lùi lại sửa đổi 4015520 của 115.75.139.107 (Thảo luận)
Đã lùi lại sửa đổi 4015655 của Phuongcacanh (Thảo luận), sở hữu bài viết
Dòng 6:
| caption =
| birthname =
| birthdate = 1765
| birthplace = [[Hà Tĩnh]]
| deathdate = 1820
| deathplace = [[Huế]]
| realname = Nguyễn Du
| penname = Thanh Hiên, Hồng Sơn lạp hộ
| occupation =
| nationality = [[Việt Nam]]
Dòng 19:
| alma_mater =
| period =
| genre = thơ chữ Hán, chữ Nôm
| subject =
| movement =
| notableworks = [[Thanh Hiên tiền hậu tập]], [[Nam trung tạp ngâm]], [[Bắc hành tạp lục]], [[Truyện Kiều]], [[Văn tế thập loại chúng sinh]], [[Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu]], và bài [[Thác lời trai phường nón]]
| notableworks = [[Truyện Kiều]]
| awards =
| spouse = [[Đoàn Thị Tộ]]
| partner =
| children =
Dòng 33:
| website =
}}
{{Đang viết 2|name=Phuongcacanh}}
'''Nguyễn Du''' ([[Chữ Trung Quốc|chữ Hán]]: 阮攸; [[1765]]–[[1820]]) [[tên tự]] '''Tố Như''' (素如), hiệu '''Thanh Hiên''' (清軒), biệt hiệu '''Hồng Sơn lạp hộ''' (鴻山獵戶), là một nho sĩ, nhà thơ nổi tiếng, và quan hai trải triều [[Triều Lê|Lê]] và [[Triều Nguyễn|Nguyễn]] của [[Việt Nam]]. Nguyễn Du là con tể tướng triều Lê [[Nguyễn Nghiễm]] và vợ thứ ba Trần Thị Tần. Mồ côi cha mẹ từ sớm, ở với anh cùng cha khác mẹ là [[Nguyễn Khản]]. Nguyễn Du học giỏi và thi đỗ Tam trường năm 1783 nhưng không cao, sau đó ông được thay cha nuôi họ Hà mới mất giữ chức quan võ ở [[Thái Nguyên]]. Khi [[Tây Sơn]] ra Bắc Hà năm [[1786]], Nguyễn Du từ chối phục vụ tân triều mà về quê vợ ở Thái Bình ẩn cư hơn 10 năm ([[1786]]-[[1795]]), sau về lại quê [[Hà Tĩnh]] ([[1796]]-[[1802]]). Trong thời gian này ông sống một cuộc sống ung dung, đọc kinh Phật, tu học thiền đạo. Năm [[1802]], Nguyễn Ánh nên ngôi vua lấy hiệu là [[Gia Long]], thành lập nhà Nguyễn. Vua mới cho vời Nguyễn Du ra làm quan và ông nhận lời cho tới năm [[1805]] khi ông cáo bệnh về quê với chức Du Đức Hầu. Năm [[1806]], triều đình Huế vời ông một lần nữa và ông lại ra làm quan với nhiều chức khác nhau. Năm [[1814]], Nguyễn Du Chính Sứ tuế cống đi Trung Quốc và sau khi về ông đựoc phong đến chức tham tri Bộ Lễ. Năm [[1820]], dưới triều Minh Mạng, khi đang chuẩn bị đi sứ lần 2 thì Nguyễn Du bệnh mất. Các tập thơ nổi tiếng để lại: [[Thanh Hiên tiền hậu tập]], [[Nam trung tạp ngâm]], [[Bắc hành tạp lục]], [[Truyện Kiều]], [[Văn tế thập loại chúng sinh]], [[Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu]], và bài [[Thác lời trai phường nón]].
'''Nguyễn Du''' ([[Chữ Trung Quốc|chữ Hán]]: 阮攸; [[1765]]–[[1820]]) [[tên tự]] '''Tố Như''' (素如), hiệu '''Thanh Hiên''' (清軒), biệt hiệu '''Hồng Sơn lạp hộ''' (鴻山獵戶), là một nhà thơ nổi tiếng thời Lê mạt, Nguyễn sơ ở [[Việt Nam]]. Ông được xem như là một nhà thơ lớn của [[Việt Nam]], được [[người Việt]] kính trọng gọi ông là "Đại thi hào dân tộc". Năm [[1965]], Nguyễn Du được [[UNESCO]] công nhận là [[danh nhân văn hóa]] thế giới.
 
==Cuộc đời==