Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Kim tự tháp Nyuserre”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Trang mới: “'''Kim tự tháp Nyuserre''' (hay '''Niuserre'''), là một khu phức hợp chôn cất được xây dựng cho pharaon Nyuserre Ini, vua thứ 6 của …”
 
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
{{Infobox ancient site
'''Kim tự tháp Nyuserre''' (hay '''Niuserre'''), là một khu phức hợp chôn cất được xây dựng cho pharaon [[Nyuserre Ini]], vua thứ 6 của [[Vương triều thứ Năm của Ai Cập|Vương triều thứ 5]] trong lịch sử Ai Cập. Người ta tin rằng, đây là phức hợp ktt cuối cùng được xây dựng tại [[Abusir]], và nó có tên gọi là ''"Nơi ở vĩnh hằng của Nyuserre"''.
| name = Kim tự tháp Nyuserre
| native_name =
| alternate_name = ''Nơi ở vĩnh hằng của Nyuserre''
| image = Niouserre1.JPG
| alt =
| caption =
| map_type = Ai Cập
| map_alt =
| map_size =
| relief =
| coordinates = {{coord|29|53|44.4|N|31|12|12.8|E|region:EG_type:landmark|display=inline,title}}
| location = [[Abusir]], [[Giza (tỉnh)|Giza]], [[Ai Cập]]
| region =
| type = Lăng mộ kim tự tháp
| part_of =
| length = 80 m
| width =
| area =
| height = 52 m
| builder =
| material = [[đá vôi]]
| built = [[Vương triều thứ Năm của Ai Cập|Vương triều thứ 5]]
| abandoned =
| epochs =
| cultures =
| dependency_of =
| occupants =
| event =
| excavations =
| archaeologists =
| condition =
| ownership = [[Nyuserre Ini]]
| management =
| public_access =
| notes =
}}
 
'''Kim tự tháp Nyuserre''' (hay '''Niuserre'''), là một khu phức hợp chôn cất được xây dựng cho pharaon [[Nyuserre Ini]], vua thứ 6 của [[Vương triều thứ Năm của Ai Cập|Vương triều thứ 5]] trong lịch sử Ai Cập. Người ta tin rằng, đây là phức hợp kttkim tự tháp cuối cùng được xây dựng tại [[Abusir]], và nó có tên gọi là ''"Nơi ở vĩnh hằng của Nyuserre"''<ref name=":0">{{Chú thích web|url=http://www.touregypt.net/featurestories/niuserrep.htm|title=The Pyramid Complex of Niuserre at Abusir}}</ref>.
Các kim tự tháp của [[Kim tự tháp Sahure|Sahure]] (ông nội của Nyuserre), [[Kim tự tháp Neferirkare|Neferirkare]] (cha của Nyuserre), [[Kim tự tháp Neferefre|Neferefre]] (anh của Nyuserre) được xếp dọc theo một đường chéo hướng đến thành phố [[Heliopolis]]. Tuy nhiên, Nyuserre đã phá vỡ mô hình trên bằng cách cho đặt ktt của mình nằm ngay giữa ktt của ông nội và cha. Điều này cho phép ông hợp nhất con đường đắp cao và đền thờ thung lũng của [[Neferirkare Kakai|Neferirkare]] vào phức hợp của mình. Tuy nhiên, điều này đã khiến cho phần đất xây dựng của Nyuserre bị thu hẹp, do đó kim tự tháp của ông lại nhỏ hơn so với những cái xung quanh.
 
Các kim tự tháp của [[Kim tự tháp Sahure|Sahure]] (ông nội của Nyuserre), [[Kim tự tháp Neferirkare|Neferirkare]] (cha của Nyuserre), [[Kim tự tháp Neferefre|Neferefre]] (anh của Nyuserre) được xếp dọc theo một đường chéo hướng đến thành phố [[Heliopolis]]. Tuy nhiên, Nyuserre đã phá vỡ mô hình trên bằng cách cho đặt kttkim tự tháp của mình nằm ngay giữa kttkim tự tháp của ông nội và cha<ref name=":1">{{Chú thích web|url=http://www.ancientegyptonline.co.uk/niuserre-pyramid.html|title=Abusir: Pyramid of Niuserre}}</ref>. Điều này cho phép ông hợp nhất con đường đắp cao và đền thờ thung lũng của [[Neferirkare Kakai|Neferirkare]] vào phức hợp của mình. Tuy nhiên, điều này đã khiến cho phần đất xây dựng của Nyuserre bị thu hẹp, do đó kim tự tháp của ông lại nhỏ hơn so với những cái xung quanh.
[[Tập tin:Pyramids of Nyuserre Ini and Neferirkare.jpg|trái|nhỏ|Kim tự tháp của Nyuserre Ini (trái) và Neferirkare (phải)]]
 
== Lịch sử khảo cổ ==
Năm 1838, nhà Ai Cập học người Anh [[John Shae Perring]] đã tìm thấy lối vào các kim tự tháp của [[Sahure]], [[Neferirkare Kakai|Neferirkare]] và Nyuserre. 5 năm sau, [[Karl Richard Lepsius]] đã đánh số cho kttkim tự tháp này là XX nhưng lại không nghiên cứu nhiều về nó<ref name=":0" />. Năm 1902, nhà Ai Cập học người Đức [[Ludwig Borchardt]] đã tái khảo sát các kim tự tháp Abusir và phát hiện ra được sự thông nhau giữa các đền đài<ref>Ludwig Borchardt (1907), ''[http://digi.ub.uni-heidelberg.de/diglit/borchardt1907bd1 Das Grabdenkmal des Königs Ne-User-Re]''</ref>. Đàn khảo cổ đến từ [[Đại học Karl ở Praha|Đại học Charles]] ([[Cộng hòa Séc]]) đã lên một kế hoạch khai quật lâu dài nơi này vào những năm 1960<ref>Jaromír Krejčí (2015), ''[https://cegu.ff.cuni.cz/cs/veda-a-vyzkum/projekty/terenni-projekty/abusir/ Abúsír]'', CEGU FF ([[Cộng hòa Séc|Séc]])</ref>.
 
== Cấu trúc phức hợp ==
 
=== Đền thờ và kim tự tháp vệ tinh ===
[[Tập tin:Pyramide de Niouserre 2.jpg|trái|nhỏ|Mô hình cấu trúc của phức hợp [[Nyuserre Ini|Nyuserre]]]]
Ngôi đền thung lũng được xây trên nền móng ban đầu của Neferirkare, cũng như con đường đắp cao. Tương tự như đền thung lũng của vua Sahure, lối vào nằm ở phía tây với 2 hàng cột đá granite hồng, dẫn đến một bờ dốc thoải lát đá bazan<ref name=":1" />. 2Hai bên tường là những phù điêu rất đẹp. Ở giữa đền đặt rất nhiều bức tượng. Trong có 3 bức tượng của nhà vua phía tây, 1 đầu tượng thạch cao của hoàng hậu [[Reptynub]] và 1 bức tượng sư tử bằng đá granite hồng<ref name=":0" />.
 
Đường đắp cao nối giữa ngôi đền thung lũng và đền thờ tang lễ vẫn còn nằm bên dưới cát, chưa được nghiên cứu kỹ lưỡng. Con đường này được lát đá bzan đen, chia làm 2 nhánh, một dẫn đến đền tang lễ và một dẫn đến phức hợp của Neferirkare<ref name=":1" />. Những vật liệu xây dựng con đường này sau đó lại được sử dụng để xây mộ cho các tư tế của Nyuserre<ref name=":0" />.
 
Đền tang lễ phía đông khá đặc biệt, được xây theo hình chữ L và trải dọc về phía nam, gồm rất nhiều phòng kho và 5 hốc tượng. Điều này là do các ngôi mộ mastaba đã được xây dựng ở xung quanh đó. Ở hốc tượng góc tây bắc có giữ một pho tượng granite hồng của một con sư tử đang nằm, hiện đã bị vỡ và được lưu giữ tại [[Viện bảo tàng Ai Cập|Bảo tàng Cairo]]<ref name=":0" />. Lối vào dẫn đến một khoảng sân được lát đá bazan, có 16 cột đá được trang trí với những ngôi sao để đỡ mái che<ref name=":0" />. 2 bức tường chạy dọc theo hành lang chỉ còn là phế tích. Bên trong sân là dấu tích của một bàn thờ đã vỡ. Những cảnh hiến tế súc vật và những nghi thức tôn giáo được khắc họa trên tường của ngôi đền tang lễ.
[[Tập tin:Nyuserre's Mortuary Temple.png|nhỏ|Cấu trúc của đền thờ tang lễ]]
 
Một kttkim tự tháp nhỏ nằm ở góc đông nam kttkim tự tháp chính, được vây quanh bởi một bức tường, có một khoang hình chữ T bên dưới. Đây chỉ là một miếu thờ, là nơi cất giữ linh hồn của nhà vua. Borchardt đã nhầm lẫn khi mô tả đây là một kim tự tháp của hoàng hậu<ref>Lehner (2008), sđd, tr.18</ref><ref name=":0" />.
Lối vào dẫn đến một khoảng sân được lát đá bazan, có 16 cột đá được trang trí với những ngôi sao để đỡ mái che. 2 bức tường chạy dọc theo hành lang chỉ còn là phế tích. Bên trong sân là dấu tích của một bàn thờ đã vỡ. Những cảnh hiến tế súc vật và những nghi thức tôn giáo được khắc họa trên tường của ngôi đền tang lễ.
 
Một ktt nhỏ nằm ở góc đông nam ktt chính, được vây quanh bởi một bức tường, có một khoang hình chữ T bên dưới. Đây chỉ là một miếu thờ, là nơi cất giữ linh hồn của nhà vua. Borchardt đã nhầm lẫn khi mô tả đây là một kim tự tháp của hoàng hậu.
 
=== Kim tự tháp ===
Lõi kttkim tự tháp có 7 tầng được làm từ đá vôi, bên ngoài được phủ thêm một lớp đá vôi trắng nữa<ref name=":0" />. Chiều cao đo được của nó là gần 52 mét, các cạnh dài 80 mét và dốc 51°. Những tên trộm bằng đá đã lấy đi phần lớn đá vôi trong các phòng làm suy yếu cấu trúc bên dưới.
 
Lối vào kttkim tự tháp nằm ở mặt phía bắc được lát đá vôi và granite, dẫn xuống một hành lang bị chặn bởi 3 khối đá granite<ref name=":1" />. Hành lang sau đó dẫn đến 2 căn phòng: phòng ngoài và phòng chôn cất. Trần của cả 2 phòng đều được kê những khối đá vôi để chống lại những tác động của động đất. Những cảnh vẽ rời rạc trên tường phòng có thể là những mô tả về chiến dịch quân sự chống người Libya<ref name=":0" />. Thật đáng tiếc là không có bất cứ những gì được tìm thấy từ trong phòng chôn cất của nhà vua.
 
== Kim tự tháp Lepsius XXIV và XXV ==
Có 2 ngôi mộ kttkim tự tháp nằm ở phía nam của phức hợp, được gọi là ''Lepsius XXIV'' và ''XXV'', được cho là thuộc về những bà hậu phi của [[Nyuserre Ini|Nyuserre]], dù không có bằng chứng xác đáng. Những kttkim tự tháp nhỏ này đã bị hư hỏng nặng nề, và [[Miroslav Verner]] hy vọng rằng, sẽ không có những phát hiện gì đặc biệt trong quá trình khai quật<ref>Verner (1994), sđd, tr.83.</ref>.
 
=== Lepsius XXIV ===
[[Tập tin:Pyramide LXXIV.jpg|trái|nhỏ|Tàn tích của Kim tự tháp XXIV]]
Lepsius XXIV được nghiên cứu một cách không liên tục vào khoảng thời gian 1980 - 1994. Đây là một phức hợp nhỏ gồm 1 đền thờ có cấu trúc khá đơn giản, 1 kttkim tự tháp chính và 1 kttkim tự tháp vệ tinh, tất cả đều bị thiệt hại<ref name=":2">Czech Institute of Egyptology: ''[http://egyptologie.ff.cuni.cz/?req=doc:lepsiuspyr&lang=en& Pyramid Lepsius no. XXIV]''</ref>. Trong đống đổ nát, người ta tìm thấy những mảnh vỡ của một cỗ quan tài bằng granite hồng bên dưới kttkim tự tháp chính, những vật dụng tùy táng và đặc biệt, xác ướp đã bị hủy hoại của một phụ nữ chết trẻ, tầm 20 - 25 tuổi<ref>Strouhal, Černý & Vyhnánek (2000), sđd, tr.544</ref>. Xác ướp đã được lấy đi phần não, một tập tục ướp xác chỉ có từ thời Trung vương quốc, cho thấy người phụ nữ này đã được nhập táng vào những thời kỳ sau<ref name=":3">Verner (2001), sđd, tr.321</ref>.
 
Không có một chứng thực cho thấy tên của chủ nhân kttkim này,tự tháp một số người vẫn nghĩ rằng đó là hoàngnày<ref hậuname=":2" [[Reptynub]]/>. Những vật dụng tìm được trong mộ là những hũ thạch cao, bình đựng nội tạng và cây nạy bằng đồng để mở miệng người chết<ref name=":3" />.
[[Tập tin:Lepsius-XXV pyramid.jpg|nhỏ|Kim tự tháp Lepsius XXV]]
 
=== Lepsius XXV ===
Một nghiên cứu bên ngoài ngôi mộ cho thấy, nó được xây dựng trong triều đại của Nyuserre<ref name=":3" />. Cuộc khai quật được tiến hành bởi nhóm khảo cổ của Verner từ năm 2001 đến năm 2004. Đây là một kttkim tự tháp đôi, ngôi mộ phía đông được gọi là XXV/1 và phía tây là XXV/2. Có 2 xác ướp của phụ nữ đã bị phá hủy chôn dưới kttkim tự tháp này, tuy nhiên vẫn không xác định được danh tính của họ<ref>Miroslav Verner: ''[https://archive.is/20130223112651/http://www.archaeogate.org/egittologia/article/657/8/nuove-scoperte-archeologiche-nellarea-delle-piramidi-di.html "New Archaeological Discoveries in the Abusir Pyramid Field."]''</ref>. Trong khi Verner cho rằng đây là một lăng mộ kttkim tự tháp thì [[Dušan Magdolen]] lại cho đây chỉ một ngôi mộ mastaba đôi thông thường<ref>Dušan Magdolen (2008): ''Lepsius No. XXV: a problem of typology'', Asian and African Studies, quyển 17, tr. 205-223</ref>.
 
== Tham khảo ==
 
* Mark Lehner (2008), ''The Complete Pyramids: Solving the Ancient Mysteries'', London: Thames and Hudson Ltd. {{Isbn|978-0-500-28547-3}}
* Miroslav Verner (1994), ''[https://web.archive.org/web/20110201085933/http://egyptologie.ff.cuni.cz/pdf/Forgotten%20Pharaohs%2C%20Lost%20Pyramids.pdf Forgotten pharaohs, lost pyramids: Abusir]'', Prague: Academia Škodaexport. {{ISBN|978-80-200-0022-4}}
* Miroslav Verner (2001), ''The Pyramids: The Mystery, Culture and Science of Egypt's Great Monuments'', New York: Grove Press {{ISBN|978-0-802-11703-8}}
* Eugen Strouhal; Viktor Černý; Luboš Vyhnánek (2000), ''"An X-ray examination of the mummy found in pyramid Lepsius No. XXIV at Abusir"'', trong Miroslav Barta; Jaromír Krejčí, ''Abusir and Saqqara in the Year 2000'', Prague: Academy of Sciences of the Czech Republic – Oriental Institute ISBN 80-85425-39-4
 
== Chú thích ==
{{tham khảo|2}}
 
[[Thể loại:Kim tự tháp Ai Cập]]
[[Thể loại:Địa điểm khảo cổ ở Ai Cập]]