Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tô Hiến Thành”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 45:
Theo ''[[Từ điển bách khoa Việt Nam|Từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam]]'', Tô Hiến Thành sinh ngày 22 tháng Giêng năm [[Nhâm Ngọ]] 1102 - mất ngày 12 tháng Sáu năm [[Kỷ Hợi]] 1179. Ông sinh ra ở Xóm Lẻ thuộc làng Hạ Mỗ, nay thuộc xã Hạ Mỗ, huyện [[Đan Phượng]], thành phố [[Hà Nội]]).<ref name=bktt>{{chú thích web |url=http://bachkhoatoanthu.vass.gov.vn/noidung/tudien/Lists/GiaiNghia/View_Detail.aspx?ItemID=1075 |title=Tô Hiến Thành |publisher=''[[Từ điển bách khoa Việt Nam|Từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam]]'' }}</ref> Có giả thuyết cho rằng ông có thể có quan hệ họ hàng với Tô thị, vợ của [[Đỗ Anh Vũ]]<ref name=Ngo140>{{Harvnb|Ngô Sĩ Liên|1993|p=140}}</ref> là nhân vật có quyền lực nhất trong triều đình đầu thời trị vì của vua [[Lý Anh Tông]].<ref>{{chú thích sách|author=Keith Weller Taylor, John K. Whitmore|title=Essays into Vietnamese pasts, Volume 19|publisher=SEAP Publications|year=1995|isbn=0877277184|page=70}}</ref> Theo sách "Từ Liêm huyện đăng khoa chí" do Cử nhân Bùi Xuân Nghi biên tập thời [[Tự Đức]] thì ông từng đỗ Thái học sinh.<ref>Bùi Xuân Nghi, ''Từ Liêm huyện đăng khoa chí''. Tài liệu viết tay bằng chữ Hán. Ký hiệu A.506. tờ 2b.</ref> Thông tin này cũng được dẫn trong các tài liệu ''"Bản phủ tiền triều chư danh khoa bi"'' và bia Văn chỉ huyện Từ Liêm dựng năm Tự Đức 25 (1872).
 
Trong chính sử, Tô Hiến Thành được đề cập lần đầu trong sử sáchtiên dovới vai trò của ông trong việc bình định nổi loạn Thân Lợi.<ref name=Ngo136>{{Harvnb|Ngô Sĩ Liên|1993|p=136}}</ref> Năm 1140, Thân Lợi tự xưng là con trai [[Lý Nhân Tông]] và nổi loạn chống vua [[Lý Anh Tông]] ở khu vực phía bắc (nay là [[Thái Nguyên]]).<ref name=Tran4546>{{Harvnb|Trần Trọng Kim|1971|pp=45–46}}</ref> Quân của Thân Lợi cuối cùng đã bị quân nhà Lý do Đỗ Anh Vũ chỉ huy đánh tan, Thân Lợi bị Tô Hiến Thành bắt và bị chém đầu theo lệnh của Lý Anh Tông tháng 10 năm 1141.<ref name=Ngo135137>{{Harvnb|Ngô Sĩ Liên|1993|pp=135–137}}</ref> Chính Tô Hiến Thành đã khuyên nhà vua tha cho các thành viên tham gia nổi loạn để tỏ lòng nhân ái đối với dân chúng.<ref>{{Harvnb|National Bureau for Historical Record|1998|p=165}}</ref> Sự nghiệp làm tướng võ của Tô Hiến Thành chủ yếu là dưới thời trị vì của vua Lý Anh Tông. Tiếp nối gương của Thái úy [[Lý Thường Kiệt]], [[Thái úy]] Tô Hiến Thành đã cùng vua [[Lý Anh Tông]] đi dẹp loạn các nơi, mở mang bờ cõi thêm về phía Tây bắc. Sự nghiệp võ công của ông chống [[Chân Lạp]] xâm lược, chinh phạt [[Chiêm Thành]]; làm cho vị thế của quốc gia [[Đại Việt]] dưới thời Lý Anh Tông trở nên lớn mạnh với các nước lân bang và với [[nhà Tống]]; buộc nhà Tống phải công nhận Đại Việt vào năm 1164.
[[Tập tin:Đền thờ Tô Hiến Thành.jpg|nhỏ|phải|200px|Đền thờ Tô Hiến Thành tại nơi đã ghi trên.]]
Sự nghiệp làm quan văn của ông cũng hiển hách không kém, nhưng phần lớn công lao lại tập trung ở giai đoạn cuối đời, khi ông trở thành đại thần phụ chính tài năng và đức độ cuối cùng của nhà Lý. Ở giai đoạn trước đó, công lao lớn nhất của ông là việc ông tổ chức khai hoang lấn biển các vùng ven biển thuộc các tỉnh [[Quảng Ninh]], [[Thanh Hóa]] và Hà Tĩnh ngày nay. Cuối đời ông làm đến chức Nhập nội kiểm hiệu [[Thái phó]] bình chương quân quốc trọng sự ([[tể tướng]]). Khi vua Lý Anh Tông băng hà tháng 7 năm 1175, hoàng tử trưởng là [[Lý Long Xưởng]] hư hỏng, vua có di chiếu lập hoàng tử [[Lý Cao Tông|Lý Long Cán]] mới có 3 tuổi lên ngôi (tức vua [[Lý Cao Tông]]), đã giao cho ông phụ chính.