Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Hiệp ước Xô-Đức”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n Đã lùi lại sửa đổi của 116.108.136.163 (Thảo luận) quay về phiên bản cuối của Kẹo Dừa Thẻ: Lùi tất cả |
n replaced: Quốc Xã → Quốc xã (42) using AWB |
||
Dòng 15:
| date_expiration = [[22 tháng 6]] năm [[1941]]
| signatories =
| parties = {{flagicon|Soviet Union|1923}} [[Liên Xô]]<br />{{flagicon|Nazi Germany}} [[Đức Quốc
| ratifiers =
| depositor =
Dòng 25:
}}
[[Tập tin:Tajny protokoł 23.08.jpg|nhỏ|305px|Trang cuối văn bản Hiệp ước không xâm phạm Đức-Xô ngày 26 tháng 8 năm 1939 (chụp bản xuất bản công khai năm 1946)]]
'''Hiệp ước Xô-Đức''', còn được gọi là '''Hiệp ước Molotov-Ribbentrop''' hay '''Hiệp ước Hitler-Stalin''' có tên chính thức là '''Hiệp ước không xâm lược lẫn nhau giữa Đức và Liên bang Xô viết''' (Tiếng Đức: Deutsch-sowjetischer Nichtangriffspakt; Tiếng Nga: Договор о ненападении между Германией и Советским Союзом); được ký kết ngày [[23 tháng 8]] năm [[1939]] giữa Ngoại trưởng [[Vyacheslav Mikhailovich Molotov]] đại diện cho [[Liên Xô]] và Ngoại trưởng [[Joachim von Ribbentrop]] đại diện cho [[Đức Quốc
Các bên thỏa thuận với các cam kết kiềm chế không tấn công lẫn nhau và giữ thái độ trung lập trong trường hợp một trong hai bên trở thành mục tiêu của những hành động quân sự của bất kỳ bên thứ ba nào. Các thành viên Hiệp định cũng cam kết không tham gia vào các nhóm thế lực trực tiếp hoặc gián tiếp chống lại phía bên kia. Trong tương lai, hai bên cam kết việc cung cấp, trao đổi lẫn nhau về thông tin đối với những vấn đề có ảnh hưởng đến lợi ích của các bên.
Dòng 40:
Một số nguyên nhân cơ bản dẫn tới hiệp ước bao gồm:
* '''Đức''' đang chuẩn bị tấn công [[Ba Lan]] và muốn tránh chiến đấu trên hai mặt trận: phía Tây chống Anh-Pháp và phía Đông chống Liên Xô. Hơn nữa, Đức cũng muốn tăng cường ngoại thương với Liên Xô để bù đắp cho sự phong tỏa của Đồng minh trên mặt biển.
* '''Liên Xô''' muốn đẩy lùi chiến tranh nhưng vấp phải sự cản trở của các nước phương Tây do họ đã ký với nước Đức Quốc
* '''Anh-Pháp''' luôn đánh giá thấp tiềm lực quân sự của Liên Xô, và nhất là Anh luôn nghi kỵ Liên Xô. Thủ tướng Anh Neville Chamberlain ghi trong nhật ký của mình: ''"Tôi xin thú thực rằng tôi rất nghi ngờ nước Nga"''.<ref>Kevill Feilingt. Cuộc đời của Neville Chamberlain. Luân Đôn. 1963. trang 403.</ref> Vì thế, họ thường tỏ ra thờ ơ mỗi khi Liên Xô đề nghị cùng hợp lực chống Đức. Việc này vô hình trung đẩy Liên Xô phải đàm phán với nước Đức Quốc
* '''Ba Lan''' đang có tranh chấp với Đức về vấn đề lãnh thổ thuộc Đông Phổ trước đây và đã chuẩn bị sắn chiến tranh với Đức. Nhưng nước này cũng nghi kỵ Liên Xô (trong quá khứ thời trung cổ, 2 nước đã nhiều lần xâm lược lẫn nhau) nên không muốn Liên Xô mang quân qua lãnh thổ của họ để chống lại Đức. Vì việc này, liên minh Nga-Anh-Pháp nhằm bảo vệ Ba Lan khó thành hiện thực.<ref>Hans Dirkshel. Moskva, Tokyo, Luân Đôn - Hai mươi năm chính sách đối ngoại của Đức. Luân Đôn. 1951. trang 238.</ref>
Do đó, kế hoạch thiết lập an ninh tập thể châu Âu do Liên Xô đề xướng luôn vấp phải sự chống đối hoặc ít ra cũng là sự lãnh đạm của các nước lớn ở Tây Âu. Điều này buộc Liên Xô phải ký kết với các nước Đông Âu và Pháp các bản hiệp ước song phương về tương trợ an ninh quốc phòng. Mặc dù không ưa Liên Xô nhưng dưới sức ép của dư luận trong nước, chính phủ các nước này cũng phải đàm phán với Liên Xô về các vấn đề quốc phòng và an ninh nhằm chống lại sự đe dọa của nước Đức Quốc
Trong các năm 1936-1937, Liên Xô đã giúp đỡ những người Cộng hòa Tây Ban Nha chống lại chế độ Franco được [[Adolf Hitler]] bảo trợ nhưng lại không được Anh, Pháp ủng hộ tích cực. Ngược lại, từ tháng 11 năm 1937, họ đã mở nhiều cuộc hội đàm với các thủ lĩnh Đức Quốc
Thái độ đó càng khuyến khích Hitler lấn tới. Tháng 8 năm 1938, quân đội Đức tập trung 30 sư đoàn quanh biên giới [[Tiệp Khắc]]. Đáng lẽ phải thành lập một mặt trận chung chống nước Đức Quốc
[[Tập tin:Bundesarchiv Bild 183-R69173, Münchener Abkommen, Staatschefs.jpg|nhỏ|trái|256px|Hitler và đại diện các nước Anh, Pháp tại lễ ký hiệp Hiệp định Munich 1938]]
[[Hiệp ước München|Hiệp định Munich]] 1938 không chỉ mở đường cho nước Đức Quốc
Về phía Đức Quốc
== Chính sách đối ngoại của Liên Xô trong những năm 1933-1939 ==
[[Tập tin:Corridor de Dantzig.jpg|nhỏ|phải|256px|Yêu sách của nước Đức Quốc
Sau khi Hitler lên nắm quyền năm 1933 và đưa nước Đức vào tiến trình của chủ nghĩa "quốc gia xã hội" chống Xô Viết, chống bồi thường cho cộng sản Liên Xô, làm băng giá các quan hệ kinh tế và quân sự Xô-Đức. Có những ý kiến cho rằng ban đầu Stalin nhìn nhận Hitler như một con rối của các tầng lớp tư bản độc quyền Đức. Họ đã đưa Hitler lên cầm quyền nhưng chính họ mới là những người chủ thực sự của Đức.<ref>С. З. Случ. Сталин и Гитлер, 1933—1941. Расчёты и просчёты Кремля, Отечественная История, 2005,№ 1 стр. 100—101.</ref> Kể từ đó, lập trường chính thức của các nhà ngoại giao Liên Xô, đứng đầu là Litvinov với chính sách về "an ninh chung châu Âu" trở thành cơ sở của hệ thống các điều ước quốc tế mà Liên Xô ký kết, phù hợp với hệ thống Versailles và ngăn chặn việc tìm kiếm kế hoạch phục thù của nước Đức.
Dòng 73:
=== "Sứ mạng Kandelaki" ===
Trong những nỗ lực để mở rộng quan hệ kinh tế, chính trị nhằm giảm căng thẳng. Việc tìm kiếm những địa chỉ liên lạc bắt đầu vào năm 1934, sau những "đêm yến tiệc" ngoại giao, người Đức đã thuyết phục được Stalin rằng Hitler là biểu tượng của quyền lực lâu bền. Kết quả là vào cuối năm 1934, người Nga đã cử ông David Vladimirovik Kandelaki đến văn phòng đại diện thương mại của họ tại Berlin làm sứ giả để tìm kiếm việc thiết lập quan hệ chính trị với nước Đức.<ref>[http://web.archive.org/web/20140429045928/http://www.hrono.ru/biograf/bio_k/kandelaki.html Торчинов В. А., Леонтюк А. М. Вокруг Сталина. Историко-биографический справочник. Санкт-Петербург, изд-во философского факультета СПБГУ, 2000, стр. 243]</ref> Trước khi chia tay Kandelaki, Stalin đã gặp ông ta hai lần (và cuộc gặp lần thứ hai diễn ra tại tư gia) cho thấy tầm quan trọng của nhiệm vụ mà Stalin giao. Tại Đức, Kandelaki đã làm việc tích cực để chuyển các mối quan hệ từ vấn đề kinh tế sang vấn đề chính trị trong các cuộc đàm phán của mình với các bộ trưởng của nước Đức Quốc
Tháng 3 năm 1935, Stalin đặc biệt lưu ý đối với các báo cáo tình báo "quan trọng, cần xem xét" của Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Pháp [[Pierre Laval]], trong đó coi Liên Xô và đối thủ Đức Quốc
=== "Những bài diễn văn có màu hạt dẻ" ===
Dòng 109:
=== Chính sách đối ngoại của Liên Xô trong cuộc khủng hoảng xuân hè 1939 ===
[[Tập tin:Bundesarchiv Bild 146-1970-050-41, Anschluss sudetendeutscher Gebiete, Panzerparade.jpg|nhỏ|phải|256px|Quân đội Đức Quốc
Đáp lại sự chiếm đóng xứ Bohemia và sáp nhập nó vào nước Đức, Chính phủ Liên Xô đã lưu ý trong Bị vong lục ngày 18 tháng 3: ''"... Nếu không có bất kỳ sự đồng thuận nào của người Tiệp, sự chiếm đóng của quân đội Đức đối với Tiệp Khắc sẽ là tùy tiện, bạo lực và hung hãn theo kiểu các nhà nước german thời trung cổ."''
Ngày 18 tháng 3, cùng khi nhận được những tin tức về tối hậu thư của nước Đức Quốc
Ngày 16 tháng 4, Litvinov đề nghị ký một hiệp ước quân sự ba bên về hỗ trợ lẫn nhau giữa các nước Anh, Pháp và Liên Xô, kể cả Ba Lan nếu họ muốn tham gia. Tuy nhiên, trong bức giác thư trả lời ngày 8 tháng 5, Chính phủ Anh đã có sự đáp ứng tiêu cực. Việc khước từ của Anh củng cố mối e ngại của Liên Xô rằng Chamberlain không muốn lập liên minh với Nga để ngăn chặn Hitler chiếm Ba Lan. Ngày 17 tháng 4, Phó dân ủy Litvinov với tư cách là Đại sứ Liên Xô tại Berlin đã cùng với Phó ủy viên ngoại giao Liên Xô Merekalov đến gặp Thư ký Văn phòng đối ngoại Nhà nước Đức Erhack von Weizsacker. Trong cuộc gặp, phía Liên Xô lưu ý những kháng nghị của mình về các hành động chiến tranh nhân danh nước Đức chống lại Tiệp Khắc có thể dẫn đến sự đổ vỡ các hợp đồng cung cấp của Liên Xô về pháo binh, súng cao xạ, hệ thống điều khiển phát hỏa cùng các bản thiết kế trong đó mô tả đầy đủ các quy trình và vật liệu để sử dụng vào mục đích quân sự, tổng cộng trị giá hơn 3.500.000 USD. Vào cuối cuộc họp, những đàm thoại về các chủ đề chính trị nói chung được Weizsacker khởi xướng. Trong đó, có đoạn như sau:
Dòng 123:
Trong nửa cuối tháng 4, Stalin đã có trong tay các tài liệu chính xác chứng tỏ Anh và Pháp đang chuẩn bị để chiến đấu yểm hộ Ba Lan. Theo nhà nghiên cứu, Sergei Zinovievich Slutch, triển vọng của việc tham gia cuộc chiến chống lại Đức không phù hợp với ý định của Stalin, và việc giữ mối quan hệ với Berlin đã trở thành sự "ưu tiên hàng đầu của ông ta".<ref>S. Z. Slutch. Сталин и Гитлер, 1933—1941. Расчёты и просчёты Кремля, trang. 110</ref>.
Ngày [[3 tháng 5]] năm [[1939]], Litvinov được thay thế bởi [[Vyacheslav Mikhailovich Molotov|Vyacheslav Molotov]]. Tại Berlin, nó được coi như là một dấu hiệu đáng khích lệ. Việc thay đổi đột ngột có ý nghĩa đặc biệt. Litvinov có chủ trương củng cố an ninh cho Nga chống lại Đức Quốc
Với các diễn biến như trên thì không có gì là bất bình thường trong việc Liên Xô tăng cường sự tiếp xúc với Đức. Ngày 20 tháng 5, Bộ trưởng dân ủy Ngoại giao Liên Xô tiếp đại sứ Đức Schulenburg trong một cuộc nói chuyện với không khí rất thân thiện. Họ cho rằng sự thành công của cuộc đàm phán về kinh tế "nên được đặt trong một khuôn khổ chính trị". Việc đề cập đến "cơ sở chính trị" của vấn đề là một sự bất ngờ đối với Schulenburg. Đây là đường hướng mới từ [[Điện Kremli]] nhưng Molotov vẫn tỏ ra kín đáo. Khi Schulenburg hỏi "cơ sở chính trị" có nghĩa như thế nào, Molotov đáp đấy là điều hai chính phủ nên suy nghĩ. Mọi nỗ lực của vị đại sứ muốn khai thác thêm ý nghĩa từ vị Ủy viên Ngoại giao chỉ hoài công.<ref>Александр Тихомиров. [http://www.portalus.ru/modules/history/print.php?subaction=showfull&id=1142637848&archive=&start_from=&ucat=1& Германия и СССР в 1918—1939 годах: мотивы и последствия внешнеполитических решений], М: Изд-во «Гея», 1995</ref> Ngày 21 tháng 5, Stalin yêu cầu Bộ dân ủy Ngoại giao Liên Xô chuẩn tất cả tài liệu về Đức và các điều ước của Liên Xô.<ref>Лев Безыменский. [http://web.archive.org/web/20130927180247/http://militera.lib.ru/research/bezymensky3/15.html Гитлер и Сталин перед схваткой. Глава 15: Когда придумали секретный протокол]</ref>.
Dòng 163:
Ngày [[26 tháng 7]], Schnurre tiếp tục phát triển chủ đề này bằng cách mời Ribbentrop, Astakhov và đại diện thương mại E.I. Babarina đến nhà hàng. Giai đoạn thứ ba của kế hoạch đã được phía Đức kích thích thêm: hoặc quay trở lại những gì nó đã đạt được trước khi hiệp ước trung lập của năm 1926, hoặc một thỏa thuận mới này sẽ đưa vào khuôn khổ lợi ích quan trọng của cả hai đảng chính trị.<ref>Tài liệu giải mật: Quan hệ Xô-Đức 1939–1941 (Tài liệu và tư liệu). Yu. Felshtinsky tập hợp và biên soạn.</ref> Ribbentrop còn nói thêm rằng Đức đã sẵn sàng để thảo luận và thương lượng với Liên Xô trên tất cả các vấn đề mà hai bên quan tâm, đề cập đến tất cả những bảo đảm về an ninh những gì mà nước Đức muốn nhận được từ nó. Ngay cả đối với các nước vùng Baltic và Ba Lan, Đức cũng sẽ dễ dàng đồng ý như đã làm đối với Ukraina (trước đó Đức đã từ chối thỏa thuận).<ref>Yuri Georgyevich Felshtinsky. Vyacheslav Dashichev [http://web.archive.org/web/20150326041908/http://lib.ru/HISTORY/FELSHTINSKY/sssr_germany1939.txt Tài liệu giải mật: Quan hệ Xô-Đức 1939–1941 (Tài liệu và tư liệu). Moskva. 1991] (Cuốn sách này chứa các tài liệu quan trọng nhất trong các tài liệu của Bộ Ngoại giao Đức liên quan đến quan hệ Đức-Liên Xô trong tháng 4 năm 1939 - tháng 6 năm 1941)</ref>
Ngày [[3 tháng 8]] Ribbentrop lần đầu tiên thực hiện một tuyên bố chính thức về quan hệ Liên Xô-Đức Quốc
''"Đối với tất cả các vấn đề liên quan đến lãnh thổ từ Biển Đen đến biển Baltic, chúng ta có thể dễ dàng dàn xếp... Đối với Ba Lan, trong những sự kiện mới phát sinh, chúng tôi đang theo dõi một cách cẩn thận và bình tĩnh. Trong trường hợp của sự khiêu khích trên một phần của Ba Lan, chúng tôi sẽ giải quyết vấn đề với Ba Lan trong vòng một tuần. Trong trường hợp này tôi đã thực hiện một gợi ý tinh tế trong khả năng của một thỏa thuận với Nga về số phận của Ba Lan.''<ref>S. E. Sluch. Stalin và Hitler, 1933—1941, Những tính toán sai làm của điện Kremly. trang 110</ref>.
Dòng 171:
=== Các cuộc đàm phán quân sự của Liên Xô với Anh và Pháp ===
Không chờ đến khi có được những thỏa thuận về chính trị, ngày [[23 tháng 7]], Liên Xô đã mời Anh và Pháp đến Moskva dự các cuộc đàm phán về các vấn đề quân sự. Ngày 25 tháng 7, Anh đồng ý và ngày 26 tháng 7, Pháp cũng đồng ý. Ngoại trưởng Anh Halifax cho biết, đoàn của ông sẽ có thể ở lại Moskva trong vòng 7 đến 10 ngày, nhưng thành phần của nó vẫn còn chưa xác định. Trong khi hoàn toàn có thể đi được bằng máy bay đến Liên Xô thì phía Anh lại lấy cớ bảo đảm bí mật với Đức để đi bằng tàu biển với tốc độ chỉ 13 hải lý/giờ.<ref>I. L. Maisky. Ai tiếp tay cho Hitler. Nhà xuất bản Tiến bộ. Moskva. 1965. trang 203.</ref> Đoàn đại biểu Anh và Pháp rời Luân Đôn đi Moskva ngày 5 tháng 8 dưới danh nghĩa đi du lịch, qua tuyến đường biển đến Leningrad (nay là St Petersburg) ngày 10 tháng 8, sau đó đi Moskva bằng tàu hoả. Tại Moskva, họ bắt đầu làm việc từ ngày 11 tháng 8. Các quan hệ với phái đoàn Anh cho các cuộc đàm phán tại Moskva được thực hiện thông qua trợ lý được Bộ trưởng Ngoại giao chỉ định làm người đứng đầu đoàn là Đô đốc Drax (mặc dù người chính thức dẫn đầu đoàn đại biểu Anh là Thứ trưởng Anthony Eden), người có vị trí không quan trọng lắm trong giới lãnh đạo quân sự Anh tại thời điểm đó. Không giống như trong cuộc đàm phán tại Ba Lan, Anh chỉ cử Tổng tư lệnh không quân, tướng Ironside làm trưởng đoàn. Điều này chứng tỏ Chamberlain không tin vào khả năng đạt được thỏa thuận với Liên Xô, cũng không tin tưởng ở khả năng quân sự của Hồng quân.Trong một bức thư cá nhân ngày 28 tháng 3, Chamberlain đã viết: ''"Tôi phải thú nhận rằng tôi hoàn toàn không tin tưởng Nga. Tôi không tin rằng họ có thể thực hiện một cuộc tấn công có hiệu quả, ngay cả khi họ muốn... Trong thực tế, người ta ghét họ vì nghi ngờ họ muốn khống chế các quốc gia lân bang nhỏ, đặc biệt là Ba Lan, Romania và Phần Lan"''.<ref>[http://web.archive.org/web/20140801221218/http://www.jourclub.ru/12/202/ Feiling К. The Life of Neville Chamberlain. L., 1963. P. 403 K. Feiling Cuộc đời của Neville Chamberlain. London. 1963. trang 403.]</ref><ref>[http://web.archive.org/web/20141205085744/http://www.uniros.ru/book/ww2/53.php]</ref> Tại cuộc họp nội các Chamberlain tuyên bố rằng đối với tất cả mọi thứ "liên quan đến việc liên minh với Nga, ông có linh cảm rằng ''"hoàn toàn không thể tin vào sức mạnh của Nga và cần phải nghi ngờ về khả năng cung cấp hỗ trợ cho Nga trong trường hợp có chiến tranh"''<ref>[http://web.archive.org/web/20140801221218/http://www.jourclub.ru/12/202/ Feiling К. The Life of Neville Chamberlain. L., 1963. P. 403 Kevill Feiling. Cuộc đời của Neville Chamberlain. London. 1963. trang 403.]</ref>. Phía Anh hy vọng sẽ sử dụng các cuộc đàm phán chỉ như là một phương tiện gây áp lực đối với Hitler và vì thế họ kéo dài đàm phán và không muốn đi đến một thỏa thuận đầy đủ.<ref>William L. Shirer, ''Sự hưng thịnh và suy tàn của đế chế thứ ba: Lịch sử của nước Đức Quốc
Những động thái trên đây không qua được những con mắt dò xét của Đức. Đại sứ [[Herbert von Dirksen]] của Đức ở Anh báo cáo về Berlin rằng các giới chính quyền Anh nhìn sự đàm phán quân sự với Liên Xô bằng con mắt hoài nghi:
Dòng 207:
:''"Mặc dù những tài liệu được phổ biến rộng rãi vào thời gian đó không chỉ ở Moskva mà còn ở cả phương Tây rằng Anh và Pháp đã không làm gì để thuyết phục Ba Lan đồng ý cho quân đội Xô Viết đi qua lãnh thổ của mình nhằm bảo vệ họ chống lại quân Đức. Những bài báo xuất bản gần đây cho thấy sự việc không hẳn là như vậy. Trong trường hợp đó, Anh và Pháp đã không thể đi trên một đoạn đường xa hơn để đến với họ. Từ các tài liệu này, có thể thấy rõ ràng rằng Ba Lan đã có sự dại dột không thể tưởng tượng được về chính trị."''<ref>[http://web.archive.org/web/20081112013018/http://www.ruslib.com:80/MEMUARY/GERM/shirer1.txt_Piece40.42 William Shirer. Sự hưng thịnh và suy tàn của Đế chế thứ ba.]</ref>.
Đồng thời với các cuộc đàm phán Moskva, chính phủ Anh đã dẫn cuộc đàm phán tại Luân Đôn với các đại diện của Đức đi đến một thỏa thuận trong đó có thể nhận thấy những lợi ích đặc biệt của Đức ở Đông và Đông Nam châu Âu. Ngoài ra, Anh cũng sẵn sàng cho phép Đức sử dụng "các thuộc địa tại khu vực châu Phi". Các cuộc đàm phán đã kết thúc trong sự thất bại vì trên thực tế Đức đã từ chối nhìn nhận các đề nghị của Anh do sự đối lập đã khá sâu sắc.<ref>[http://www.cultinfo.ru/fulltext/1/001/008/071/286.htm Các cuộc đàm phán tại London]</ref>.Trong tuyên bố chính thức của mình, Chính phủ Liên Xô cho rằng không thể tin tưởng vào đối tác của họ tại các cuộc đàm phán và Moskva đã đồng ý xem xét đề xuất của Đức cho việc ký kết các Hiệp ước không xâm lược giữa Đức Quốc
== Tình hình chính trị ở Đông Âu ==
Dòng 221:
=== Ký kết hiệp ước ===
[[Tập tin:Ribbentrop v Moskve.jpg|nhỏ|phải|256px|Đoàn ngoại giao Đức Quốc
Ribbentrop bay tới Moskva lúc giữa trưa ngày [[23 tháng 8]] và ngay lập tức đã đi đến điện Kremlin. Tại đây, cuộc họp kéo dài ba giờ đã kết thúc thuận lợi cho người Đức. Khi thảo luận về dự thảo hiệp ước, Stalin nói: "Hiệp ước này yêu cầu một thỏa thuận bổ sung, mà chúng tôi muốn làm ngay chứ không phải đi bất cứ nơi đâu." Một nghị định thư bí mật về các chi tiết của lĩnh vực được hai bên cùng quan tâm đã được dự thảo. Trong ngày, Hitler đã gửi cùng một bức điện phê chuẩn dự thảo, và Ribbentrop cũng báo cáo về tiến độ thành công của các cuộc đàm phán. Trở ngại duy nhất để ký kết các văn bản chính thức là tuyên bố của Liên Xô đối với hai cửa ngõ Latvia - Liepaya và Ventspils phải được thu hút vào vùng ảnh hưởng của Liên Xô. Hitler đã nhượng bộ điều này.<ref>[http://www.aroundspb.ru/variety/docs/diplomat/pakt.php Bản dịch tiếng Nga các bức điện số 204 ngày 23 tháng 8 năm 1939, cùng bản sao của nguyên bản tiếng Đức (tài liệu số 31)]</ref>
Dòng 230:
Đáp lại câu hỏi của Stalin về tham vọng của bạn bè của Đức – Ý và Nhật – Ribbentrop trả lời một cách thông suốt và tạo sự an tâm. Đối với Anh quốc, hai bên có những nhận định giống nhau. Stalin thổ lộ với đoàn khách rằng phái bộ quân sự Anh "chưa bao giờ nói cho chính phủ Liên Xô biết họ muốn gì." Ribbentrop đáp lại bằng cách nhấn mạnh rằng nước Anh luôn nỗ lực gây rối cho mối quan hệ Liên Xô-Đức. Ông khoác lác rằng "Anh là nước yếu đuối, và muốn để mặc cho các nước khác đánh nhau để họ thống trị thế giới." Bản ghi nhớ của Đức ghi "Stalin đồng ý một cách hăm hở," và ông nhận xét: "Nếu Anh thống trị thế giới, thì đấy là do những nước khác đã ngu xuẩn để cho bị lừa bịp."
Sau những lần chạm cốc và chúc tụng lẫn nhau giữa hai bên cho đến gần đây còn là hai kẻ thù không đội trời chung, dường như Stalin có vài lo nghĩ về việc liệu Đức Quốc
:''Chính phủ Liên Xô có ý định rất nghiêm túc đối với hiệp ước mới. Ông có thể đảm bảo bằng lời nói danh dự của mình rằng Liên Xô sẽ không phản bội bên liên minh với mình.''
=== Nội dung Hiệp ước ===
[[Tập tin:Bundesarchiv Bild 183-S52480, Dtsch.-Sowjet. Grenz- u. Freundschaftsvertrag.jpg|nhỏ|phải|256px|Bộ trưởng ngoại giao Đức Quốc
Hiệp ước như được phổ biến quy định rằng bên này sẽ không tấn công bên kia. Nếu một bên trở thành "đối tượng của hành động thù địch" do bên thứ ba gây ra, bên kia sẽ "không hỗ trợ cho bên thứ ba bằng bất cứ cách nào." Cả Đức và Liên Xô sẽ không "gia nhập bất kỳ phe nhóm nào trực tiếp hoặc gián tiếp nhắm đến bên kia".
Dòng 267:
Có nhiều ý kiến trái ngược trong việc đánh giá các khía cạnh pháp lý của hiệp ước. Theo một số ý kiến, bản thân Hiệp ước không xâm lược lẫn nhau (không kèm theo Nghị định thư) không hàm chứa bất cứ điều gì không bình thường và hoàn toàn giống như bất kỳ một hiệp ước không xâm lược khác đã được ký kết trong lịch sử châu Âu đương đại (ý nói đến một hiệp ước tương tự giữa Đức và Ba Lan).<ref>Mikhail Ivanovich Semiryaga. Sự thỏa thuận giữa Liên Xô và Đức từ năm 1939 đến tháng 6 năm 1941 - Từ nhãn quan của các nhà sử học. Tạp chí Nhà nước và pháp luật Liên Xô. số 9. 1989. trang 93</ref><ref>R. A. Mullerson. Sự thỏa thuận giữa Liên Xô và Đức từ các khía cạnh của luật pháp quốc tế. (Tạp chí nói trên). trang 106</ref>.
A. A. Pronin có một ý kiến khác. Ông đã chỉ ra rằng Hiệp ước đã không có một điều khoản quan trọng được ghi nhận, đó là '''''sự huỷ bỏ hiệu lực của nó nếu một bên ký kết nhưng không giữ cam kết mà lại tiến hành chiến tranh xâm lược bên kia'''''. Đây là một nhược điểm lớn của phía Liên Xô khi soạn thảo Hiệp ước. Trong bản dự thảo hiệp ước của Liên Xô thì tính trung lập là một điều kiện tiên quyết cho việc tuân thủ một tình huống mà trong đó một trong hai bên "phải chịu một hành động bạo lực hay một cuộc tấn công bởi một thế lực thứ ba". Nhưng những từ ngữ cuối cùng của Điều II của Hiệp ước lại giả định rằng "sự trung lập sẽ được thực hiện trong trường hợp một trong hai bên không có đối tượng tấn công hay đối tượng của hành động quân sự của một thế lực thứ ba". Phát biểu như vậy là điển hình của nền ngoại giao [[Đức Quốc
A.A. Pronin cũng chỉ ra rằng hiệp ước có liên quan chặt chẽ với nghị định thư bí mật và không thể đánh giá nó theo ý kiến riêng về hình thức cụ thể bên ngoài mà không xét đến tình hình chiến tranh trong thời điểm đó. Nghị định thư bí mật của hiệp ước nằm trong mục tiêu lợi ích của Liên Xô đối với vùng Baltic: Latvia, Estonia và Phần Lan, và của Đức đối với Litva và Ba Lan trên các tuyến sông Narew, Wisla, sông San đến Vilnius, nghĩa là từ Ba Lan đến Litva. Trong trường hợp này, cho dù đó là sự mong muốn xuất phát từ quan điểm lợi ích của các bên tham gia ký kết hiệp ước muốn bảo vệ nhà nước Ba Lan thì vấn đề này dứt khoát phải "đi xa hơn sự phát triển chính trị như trong bất kỳ trường hợp nào cần phải được giải quyết" "bằng một hiệp ước thân thiện". Ngoài ra, Liên Xô nhấn mạnh sự quan tâm của họ đối với vùng Bessarabia, và Đức cũng đã không phản đối lợi ích của Liên Xô tại khu vực này của Rumani. Nghị định thư bổ sung được A. A. Pronin đánh giá là không thể biện minh về tính hợp pháp vì nó liên quan đến các nước thứ ba.<ref>A. A. Pronin. Những sai lầm và hệ lụy của thỏa thuận giữa Liên Xô và Đức năm 1939. Tạp chí Nhà nước và pháp luật Liên Xô. số 9. 1989. trang 127.</ref>.
Dòng 286:
=== Những giả thiết về mục đích bành trướng của Stalin ===
Theo ý kiến của một số nhà nghiên cứu, Hiệp ước Xô-Đức là một biểu hiện tham vọng bành trướng của Stalin. Những người tìm cách đẩy Đức sang phía "dân chủ phương Tây" có cớ để vui mừng vì họ có thể được chứng kiến sự Xô Viết hoá Tây Âu<ref name="G Nazhafov 2006">D. G Nazhafov. Hiệp ước không xâm lược Đức Quốc
=== Những giả thiết về động cơ hành động theo lợi ích dân tộc của Stalin ===
Dòng 325:
Một số nhà nghiên cứu cho rằng Stalin, khi đưa ra đề nghị về một cuộc đấu tranh chung chống Hitler không hẳn xuất phát từ sự vô tư vì đề nghị đó thể hiện quyền lợi của Moskva. Họ dựa vào một số báo cáo, trực tiếp hay gián tiếp, lật lại vấn đề này của Stalin. Một trong các số báo Pravda (Sự thật) ra năm 1940 sau đây có thể xác định hành vi của Liên bang Xô viết trước khi ký hiệp ước:
:''"Liên Xô đã tìm cách thực hiện nghĩa vụ quốc tế của mình ở biên giới phía tây của nước ta và thúc đẩy hòa bình, và Liên Xô bỏ qua những vấn đề này trong quan hệ ngoại giao với Anh-Pháp để tổ chức cuộc chiến tranh với sự tham gia của Liên bang Xô viết"''.<ref>Kỷ niệm Hiệp ước Đức Quốc
Những điểm trên cũng thấy trong lời của Stalin với Georgi Dimitrov (ngày [[7 tháng 9]] năm [[1939]]). điều này cho thấy rằng Stalin đã hy vọng có được sự "thanh toán" cho một liên minh với các nền dân chủ:
Dòng 338:
Liên bang Xô viết đã mong muốn thực hiện lợi ích quan trọng của mình trong việc dịch chuyển đường biên giới đến các vị trí cực Tây càng gần quân đội Đức càng tốt. Bằng cách đó Liên Xô có thời gian để có thể tập hợp sức mạnh từ tất cả các khu vực trong đế chế khổng lồ của họ. Trong tâm trí sắt đá của người Nga vẫn còn vết thương nóng bỏng của thảm họa mà quân đội của họ phải chịu trong năm 1914, khi họ ồ ạt triển khai các cuộc tấn công vào quân Đức trong tình trạng trang bị của quân đội vẫn chưa hoàn bị. Và bây giờ, biên giới của họ đã xa hơn phía Tây, xa hơn so với cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất. Và họ đã bắt buộc phải dùng biện pháp đó để chiếm Pribaltic và phần phía Tây của Ba Lan trước khi quân Đức tấn công họ. Nếu chính sách của họ có phần lạnh lùng thì cũng dễ hiểu vì nó rất phù hợp với thực tế của tình hình.<ref>[http://web.archive.org/web/20140405092419/http://militera.lib.ru/memo/english/churchill/index.html Trích dẫn từ W. Churchill Cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai. Moskva. Nhà xuất bản Quân sự. 1991. Tập 1. Phần 1. Chương 21. (Цитируется по Черчилль У. Вторая мировая война. — М.: Воениздат, 1991], т. 1, часть 1, глава 21.)</ref>
=== [[Adolf Hitler]], Thủ lĩnh Đảng Quốc
Với Hiệp ước này, từ quan điểm của người Nga cho thấy chúng ta đã gặp thuận lợi do họ không có khả năng tham gia vào bất kỳ một cuộc xung đột nào, kể cả một cuộc xung đột như vậy tại Romania!<ref>[http://web.archive.org/web/20070821022512/http://around.spb.ru:80/variety/docs/diplomat/pakt.php Các tài liệu về các mối quan hệ Liên Xô-Đức]</ref>
Dòng 362:
Thỏa thuận này có được sau thất bại của cuộc đàm phán Liên Xô-Anh-Pháp cho thấy rằng hiện nay, không thể quyết định vấn đề quan trọng của quan hệ quốc tế, đặc biệt là các vấn đề của Đông Âu, mà không có sự tham gia tích cực của Liên bang Xô viết, rằng bất kỳ nỗ lực để phá vỡ Liên Xô và giải quyết các vấn đề sau lưng Liên Xô sẽ chắc chắn kết thúc bằng sự thất bại. Hiệp ước không xâm lược Đức-Xô có nghĩa là thay đổi sự phát triển của châu Âu... Thỏa thuận này không những cho chúng ta loại trừ các mối đe dọa chiến tranh với Đức... mà nó sẽ cho chúng ta những cơ hội mới để phát triển các lực lượng vũ trang, củng cố vị trí của chúng ta và phát huy liên tục những ảnh hưởng của Liên Xô trong quan hệ quốc tế.<ref>[http://web.archive.org/web/20150828052151/http://militera.lib.ru/research/meltyukhov/index.html Trích phát biểu của V. M. Molotov tại Xô viết tối cao Liên Xô về việc phê chuẩn Hiệp ước không xâm lược Đức-Xô. Dẫn theo M. I. Meltyuhov Những cơ hội bị bỏ lỡ của Stalin. Liên Xô và các đấu tranh cho châu Âu. 1939-1941. Moskva. 2000]</ref>
=== Kurt von Tippelskirch, thượng tướng quân đội Đức Quốc
Một câu hỏi được đặt ra: có thể có một số chính trị gia không muốn sử dụng tất cả các ảnh hưởng của mình để ngăn chặn một thảm họa tương tự như [[Chiến tranh thế giới thứ nhất]]. Thực tế là Hitler muốn chiến tranh, ít nhất là chiến tranh khu vực. Nhưng ông sẽ không dễ dàng để đạt được mục tiêu đó, nếu không tìm thấy những đồng minh cần thiết và kẻ thù ở Liên Xô, Anh và Ba Lan. Điều quan trọng là thái độ của Liên Xô. Khi Hitler nhận được sử bảo đảm sự đồng tình với mình, ông ta thực sự tự tin rằng ông ta sẽ giành chiến thắng trong cuộc chiến chống các cường quốc phương Tây. Xã hội Liên bang Xô Viết cũng là một cơ sở lý luận thuyết phục cho phép Hitler xua tan nghi ngờ về các cố vấn quân sự của mình. Loại ý kiến thứ hai tin rằng rất khó để dự đoán trước những gì sẽ xảy ra trong phạm vi các hành động quân sự nếu họ đi xa hơn một cuộc xung đột khu vực. Và do đó sự mở rộng chiến tranh là không thể.<ref>[http://web.archive.org/web/20090922121910/http://infoart.iip.net:80/politic/yugoslav/history/war2part2/war2a005.htm Kurt von Tippelskirch. Lịch sử Chiến tranh thế giới thứ hai]</ref>
Dòng 370:
Pháp, cùng với Đức và Anh nhất trí để loại trừ Nga khỏi việc tham gia Hội nghị [[München|Munich]] năm 1938. Một vài tháng sau đó, các nền dân chủ phương Tây đã phải trả giá về việc đó. Ngày 3 tháng 10, bốn ngày sau Hội nghị Munich, Werner von Tippelskirch, tham tán Đại sứ quán Đức ở Moskva đã báo cáo về Berlin rằng Hội nghị Munich đã có những tác động tiêu cực đến chính sách của Liên Xô.
Ở Luân Đôn và Paris, người ta chỉ còn biết chua xót khóc than cho cuộc chơi tay đôi với Stalin. Trong nhiều năm những người Xô Viết ra sức hô hào hãy cảnh giác trước "con thú phát xít", kêu gọi tất cả các quốc gia yêu chuộc hòa bình hãy đoàn kết để ngăn chặn sự xâm lăng Đức Quốc
Sự hoài nghi về thỏa thuận bí mật giữa Stalin và Hitler (vành đai Đông Âu) chỉ được xác nhận tại Berlin và Moskva. Tuy nhiên, thế giới sẽ sớm học được tất cả các bài học qua các bước đi mà người Nga đã đưa ra, và thậm chí sau đó chủ nghĩa phát xít đã tấn công trên toàn thế giới.
Dòng 380:
=== Ở phương Tây ===
Năm [[1945]], các văn bản gốc bằng tiếng Đức của nghị định thư bổ sung đã được Quân đội Liên Xô thu giữ và chuyển về Moskva, nhưng bản chụp của nó trên microfilm vẫn được bảo quản trong kho lưu trữ tài liệu của Bộ ngoại giao của Đức. Tháng 5 năm 1945, thư ký Bộ Ngoại giao Đức Karl von Loesch đã đưa bản sao này cho viên trung tá người Anh R. S. Thompson. Trong bài phát biểu công khai về nghị định thư bí mật lần đầu tiên được nêu ra tại [[Tòa án Nürnberg]], bị cáo Karl von Loesch đã thừa nhận đã thực hiện sao chép một thoả thuận bí mật về quốc phòng. Ông này cũng cho biết Ribbentrop, và sau đó là Hess đã nhận một bản sao của bản sao và cố gắng để đọc nó. Nhưng ông ta đã từ chối cho biết nguồn gốc của tài liệu tại tòa án. Sau này trong hồi ký của mình, ông này lại nói rằng mình đã nhận được văn bản từ tình báo Mỹ. Một vài tháng sau đó, ông ta định công bố nó trên tờ tạp chí Mỹ "St Louis Post công báo", nhưng tạp chí không chấp nhận điều này. Những cũng chính từ tạp chí đó mà thông tin này gây được tiếng vang rộng rãi vào năm 1948 khi nó được xuất bản trong một bộ sưu tập của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ: "Quan hệ Đức Quốc
=== Tại Liên Xô ===
Ở Liên Xô, sự tồn tại của Nghị định thư bí mật đã bị bác bỏ thẳng thừng. Sau khi chiến tranh nổ ra, Moskva đã được sơ tán, trong đó có bản sao thứ hai của nguyên bản tiếng Đức. Chúng được lưu giữ trong tủ cá nhân an toàn của Stalin và sau đó là trong kho lưu trữ của Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô.<ref name="katyn.ru">[http://katyn.ru/index.php?go=Pages&file=print&id=223 Valery Boldin. Valery Boldin. Giải mật các tài liệu tối mật. Số 03. Tháng 3 năm 1999 Валерий Болдин. Над пропастью во лжи «Совершенно секретно». № 03, март 1999 г..]</ref>.
Năm 1948, để phản ứng với việc Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ xuất bản cuốn sách có tên gọi "Quan hệ Đức Quốc
Vấn đề Hiệp ước không xâm lược Xô-Đức và đặc biệt là Nghị định thư bí mật đã được lật lại ở Liên Xô trong thời cải tổ, chủ yếu do áp lực của Ba Lan thông qua Hiệp hội nghiên cứu lịch sử hai nước Ba Lan-Liên Xô. Để nghiên cứu vấn đề này, một ủy ban đặc biệt đã được thành lập do Bộ trưởng Thông tin tuyên truyền [[Alexander Yakovlev]] lãnh đạo. Ngày [[24 tháng 12]] năm [[1989]], sau khi nghe báo cáo của Yakovlev về những phát hiện của các nhà nghiên cứu trong Hiệp hội, Đại hội đại biểu nhân dân Liên Xô đã thông qua một nghị quyết lên án Nghị định thư bí mật (ghi nhận việc thiếu bản gốc nguyên văn nhưng công nhận tính xác thực của nó dựa trên các chữ viết tay, bản ảnh kỹ thuật và xét nghiệm từ vựng trong bản sao cũng như các sự kiện tương ứng tiếp theo của nó).<ref>[http://web.archive.org/web/20121027092735/http://www.lawmix.ru/docs_cccp.php?id=1241 Bản tin của Đại hội Đại biểu nhân dân Liên Xô và Xô Viết tối cao Liên Xô. 1989. Số 29. trang 579. (Ведомости Съезда народных депутатов СССР и Верховного Совета СССР. 1989. № 29. Ст. 579.]</ref> Đồng thời, lần đầu tiên tại Liên Xô, văn bản của Nghị định thư bí mật (từ bản microfilm của Đức) đã được xuất bản tại tạp chí "Câu hỏi của Lịch sử" số 6 năm 1989.<ref name="tapirr.com">[http://www.tapirr.com/texts/history/suvorov/pravda/pavlova.htm I. V Pavlova. Tìm kiếm sự thật vào đêm trước của Chiến tranh thế giới thứ hai. (И. В. Павлова. Поиски правды о кануне Второй мировой войны)].</ref>
Dòng 414:
Từ khi gia nhập [[Hội Quốc Liên]], Liên Xô đã gây dựng một sức mạnh tinh thần cổ súy cho hòa bình và đứng đầu việc chống lại phát xít gây hấn. Bây giờ, trung tâm tinh thần ấy đã hoàn toàn vỡ vụn. Trên tất cả, qua việc thỏa hiệp một cách lôi thôi với Hitler, Stalin đã nổ phát pháo lệnh bắt đầu một cuộc chiến chắc chắn rồi sẽ mở rộng thành cuộc xung đột thế giới. Ông hiểu rõ điều này. Nhiều năm trước, Hitler đã dự trù trong quyển ''[[Mein Kampf]]'': "Việc ký kết mối liên minh với Nga chỉ là kế hoạch cho cuộc chiến kế tiếp". Nhờ Hiệp ước này, Đức được rảnh tay với Nga để chú tâm thôn tính Ba Lan mà không còn e ngại mối liên minh Anh-Pháp-Liên Xô vốn hợp lực lại mạnh hơn Đức rất nhiều. Sau khi đã hạ tiếp Anh-Pháp, Hitler xé bỏ Hiệp ước mà xâm lăng Liên Xô.
Theo William L. Shirer: "Lịch sử cho thấy Hiệp ước Đức Quốc
Năm 2014, Tổng thống Nga [[Vladimir Putin]] tuyên bố rằng việc Liên Xô ký Hiệp ước với Đức là không có gì xấu trong bối cảnh đó. Ông Putin nói rằng các sử gia phương Tây ngày nay đang cố gắng lờ đi [[Hiệp ước München]] năm 1938, trong đó Pháp và Anh - do [[Neville Chamberlain]] làm thủ tướng - đã xoa dịu Adolf Hitler bằng cách ép buộc Tiệp Khắc phải trao cho Đức vùng Sudetenland. Việc làm đó của Anh đã phá hủy mọi cơ hội thành lập liên minh chống phát xít theo đề nghị của Liên Xô, khiến Liên Xô phải quay sang thỏa hiệp với Đức Quốc
== Tham khảo ==
|