Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Đại Việt sử lược”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 41:
:''"Vào khoảng các năm [[1127]] - [[1140]], sử thần [[nhà Lý]] là [[Đỗ Thiên]] đã soạn ra bộ "sử ký" chép bao quát toàn bộ lịch sử nước Việt từ thời thượng cổ đến cuối triều [[Lý Nhân Tông]] ([[1127]]). Bộ sử này mang đậm tính chất truyền thống sử học [[Phật giáo]].
:''"Sau đó, vào khoảng năm [[1223]] - [[1240]], sử thần [[nhà Trần]] là [[Trần Phổ]] <ref>Tra trong ''[[Đại Việt sử ký toàn thư]]'', thì thấy đời [[Trần Thái Tông]] có viên quan tên là '''Trần Chu Phổ''' thi đỗ đệ tam giáp năm [[1232]], đến năm [[1251]] làm sử quan... Theo GS. [[Phan Huy Lê]] và GS. [[Trần Văn Giáp]] thì rất có thể Trần Tân hay Trần Phổ chính là ông này (Phan Huy Lê, "Bài khảo cứu" in ở đầu bản dịch bộ ''[[Đại Việt sử ký toàn thư]]'', tr. 14; và Trần Văn Giáp (''Tìm hiểu kho sách Hán Nôm'', tr. 51).</ref> đã hiệu đính lại tác phẩm này thành hai quyển I và II, đồng thời chép tiếp về [[nhà Lý]], làm thành quyển III.
:''"Tác phẩm mới gồm 3 quyển này được gọi là '''Việt sử lược''', chịu sự ảnh hưởng nhất định của [[Nho giáo]], điều đó đặc biệt thấy rõ ở quyển III, là quyển do Trần Phổ đã biên soạn. Cuối cùng, trong khoảng năm [[1377]] - [[1388]], bộ ''Việt sử lược'' được Trần Phổ (hoặc một người khác) bổ sung thêm phần thế phổ [[nhà Trần]] (phụ bản), rồi đổi tên nó thành '''Đại Việt sử lược'''" <ref>Lược kể theo Lời giới thiệu sách ''Đại Việt sử lược'' (bản do Nguyễn Gia Tường dịch) của GS. TS Trần Ngọc Thêm.</ref>.''
 
Sau đó trải bao binh lửa, ''Đại Việt sử lược'' bị thất truyền. Mãi đến thời [[Càn Long]] (trị vì: [[1736]] - [[1795]]), sách mới được tìm thấy trong ''Khâm định tứ khố toàn thư'' của triều [[Nhà Thanh|Thanh]] ở [[Trung Quốc]]. Để bổ cứu cho phần ngoại truyện của ''[[Nhà Tống|Tống]] sử'' và ''[[Nhà Nguyên|Nguyên]] sử'', một nhà học giả đời [[Nhà Thanh|Thanh]] là Tiền Hy Tộ (người Kim Sơn, nay thuộc tỉnh [[Giang Tô]]) đã tiến hành hiệu đính, cho khắc in, rồi đưa sách vào Tứ khố, nhờ vậy mà ''Đại Việt sử lược'' còn tồn tại cho đến ngày nay.
Dòng 50:
:''"Nói [[Lê Văn Hưu]] là tác giả bộ chính sử thứ nhất của [[Việt Nam]] vẫn là đúng đắn....Trước ''Đại Việt sử ký'' của ông, vẫn chưa có sách nào gọi là chính sử. Sách của Trần Chu Phổ có lẽ là sách ''Việt sử lược'' hay ''Đại Việt sử lược'', cũng chỉ được coi như loại sách sử riêng, làm xong sau sách của Lê Văn Hưu, không được triều đình công nhận là chính sử chăng, nên không được phổ biến (có lẽ vì thế mà Ngô Sĩ Liên không nhắc đến hay dựa vào). Tuy nhiên, đây cũng chỉ mới là giả thuyết thôi".''<ref>Xem chi tiết trong ''Tìm hiểu kho sách Hán Nôm'' tr. 49-54.</ref>
 
Gần đây, sau khi phát hiện gia phả họ Trần ở [[Hà Tĩnh]]<ref>Theo GS.TS. Trần Ngọc Thêm, bài viết đã dẫn, tr. 10.</ref> và công bố của PGS. TS. Trần Bá Chí (giáo sư đã căn cứ vào ''Quan du tạp lục'' của [[Nguyễn Hoằng Nghĩa]] <ref>Nguyễn Hoằng Nghĩa ([[1785]] - ?), là người xã Hoàng Hà, tổng Hạ Nhất, huyện Thạch Hà, phủ Hà Thanh, tỉnh Hà Tĩnh (nay thuộc xã Thạch Hà, huyện [[Thạch Hà]], tỉnh [[Hà Tĩnh]]). Ông đỗ [[Tiến sĩ]] khoa [[Ất Mùi]] ([[1835]]) năm [[Minh Mạng]] năm thứ 16, làm quan trải đến chức Hàn lâm viện Biên tu, Thự Tri phủ [[Tĩnh Gia]] ([[Thanh Hóa]]).</ref> để chứng minh giả thuyết),<ref>Theo GS. Phan Huy Lê, bài viết đã dẫn, tr. 16.</ref> thì một số nhà nghiên cứu [[Việt Nam]] lại nghiên về phía: tác giả ''Việt sử lược'' chính là [[Sử Huy Nhan]] (? - [[1421]]), người làng Ngọc Sơn (nay thuộc xã Đức Thuận huyện [[Đức Thọ]], tỉnh [[Hà Tĩnh]]), đỗ [[Trạng nguyên]] năm [[Quý Mão]] ([[1363]]), viết ''Việt sử lược'' vào đời [[Trần Duệ Tông]] ([[1373]] - [[1377]]). Ông vốn họ Trần, nhưng giỏi sử nên được vua Trần đổi sang họ Sử. Nếu tin theo đây, thì ''Đại Việt sử lược'' là sách có sau.
 
Vì chưa đạt được sự đồng thuận về tác giả, về thời điểm ra đời của ''Đại Việt sử lược'', nên phần nhiều các sách hiện nay đều ghi là "khuyết danh" và là sách thuộc đời [[Nhà Trần|Trần]].
Dòng 71:
Trích một đoạn trong bài ''Tựa'' (dịch từ [[chữ Hán]]):
:...''Nước [[An Nam]] từ đời [[nhà Tống]] trở về sau, vẫn giữ lệ cống. Vậy mà dám nhân lúc triều trước (ý nói các triều đại bên [[Trung Quốc]]) loạn lạc, không ai chế ngự mới bèn chiếm trộm đế hiệu, lại còn ghi rõ trong sử sách để tự khoe khoang, càn quấy, thật là điều trái lẽ... Tuy vậy, các vua [[Ngô (nước)|Ngô]], [[Sở (nước)|Sở]] tiếm hiệu, [[kinh Xuân Thu]] đã chê (nhưng) mà nhà viết truyện cũng không bỏ mất sự thật của nó.
:''Cho nên dựa vào ngụy sử (ý nói ''Đại Việt sử lược''), theo lệ mà chép là để cho rõ cái tội của nó, và cũng để bổ cứu cho phần ngoại truyện của [[Nhà Tống|Tống]] sử và [[Nhà Nguyên|Nguyên]] sử hiện chưa đầy đủ...<ref>Lời phê của GS.TS. Trần Ngọc Thêm trích trong ''Đại Việt sử lược'' (bản dịch của Nguyễn Gia Tường, tr. 12) và đoạn trích cũng nằm trong sách này (tr. 23)</ref>.''
 
== Chú thích ==