Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Rwanda”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n clean up using AWB
Dòng 82:
Người [[Twa]] có lẽ đã từng sống trong và xung quanh Rwanda từ 35.000 năm. Theo truyền thuyết do những người châu Âu đầu tiên tới đây đưa ra, gồm cả [[John Hanning Speke]], nhóm người [[Hutu]] đã tới Rwanda từ châu thổ [[sông Congo]]. Truyền thuyết này còn nói thêm rằng giữa thế kỷ XIV và XV, dân cư du mục đồng cỏ [[Tutsi]] đã tới đây từ [[Ethiopia]], nơi họ lai một chút dòng máu da trắng. Theo cách này, những người định cư [[châu Âu]] giải thích nguồn gốc cái mũi hẹp và vóc dáng cao của nhóm người [[Tutsi]]—những đặc điểm được cho là riêng có của cái gọi là giống người da trắng thượng đẳng.
 
Dù truyền thuyết này vẫn được lặp lại, thông thường là không có minh chứng về nguồn gốc, các nhà ngôn ngữ học và di truyền học hiện đại đặt nghi vấn về nó, câu chuyện có thể đã được kể lại tại những ngôi trường nông thôn thời [[thuộc địa]] và ngày càng đóng vai trò quan trọng trong [[xã hội]] Rwanda.<ref>{{chúChú thích web|url=http://www.ciaonet.org/isa/wrs01/|titletiêu đề=Genocide in Rwanda: Draft Case Study for Teaching Ethics and International Affairs|accessdatengày truy cập=ngày 26 tháng 8 năm 2007|datengày=ngày 14 tháng 3 năm 2000|publishernhà xuất bản=Columbia International Affairs Online}}</ref>,<ref>{{chúChú thích web|url=http://www.africansocieties.org/eng_giugno2002/eng_rwanda.htm|titletiêu đề=The social construction of hate|accessdatengày truy cập=ngày 26 tháng 8 năm 2007|datengày=ngày 24 tháng 5 năm 2002|publishernhà xuất bản=Theory, Culture & Society}}</ref> Thực tế, [[Kinyarwanda]], ngôn ngữ của tất cả những người dân Rwanda, đã thống nhất đất nước. Nếu một người coi ngôn ngữ hình thành nên cơ bản của chủng tộc, như ở các quốc gia [[Châu Phi]] khác, thì tất cả người dân Rwanda đều thuộc nhóm sắc tộc [[Kinyarwanda]]. Hơn nữa, tất cả người dân Rwanda đều có, như họ vẫn đang có, cùng tôn giáo và văn hóa, dù [[Thiên Chúa giáo|Thiên chúa giáo]] sau này có thể thay thế các đức tin truyền thống Rwanda.<ref>{{chúChú thích web|url=https://www.cia.gov/library/publications/the-world-factbook/geos/rw.html|titletiêu đề=The World Factbook: Rwanda|accessdatengày truy cập=ngày 26 tháng 8 năm 2007|datengày=ngày 21 tháng 4 năm 2007|publishernhà xuất bản=C. I. A.}}</ref> Vì thế, theo những tiêu chuẩn được nhiều người công nhận, tất cả người dân Rwanda đều thuộc một sắc tộc.
 
Rwanda thời tiền thuộc địa không còn lưu lại bất kỳ một văn bản nào, và điều thực tế đã diễn ra hiện chỉ còn lại lờ mờ sau những truyền thuyết do người châu Âu sáng tạo ra. Tuy nhiên, cái đã được biết rõ hiện nay là Vương quốc Rwanda đã từng ở trình độ tổ chức cao, là một xã hội đồng nhất, với tôn giáo và các câu truyện thần thoại riêng. Đất nước này, thậm chí khi ấy đã được biết đến vì tính kỷ luật của [[quân đội]], đã thành công trong việc chống chọi các cuộc tấn công từ những kẻ ngoại bang, và tung ra những cuộc tấn công vào Vương quốc Burundi và vùng lãnh thổ phía tây [[hồ Kivu]]. Không có bằng chứng về sự bất hòa xã hội trước khi những người châu Âu đặt chân đến đây.
Dòng 90:
Tất cả ba tầng lớp trên đều phải đóng góp cho đức vua để đổi lấy sự bảo hộ và nhiều ân sủng khác. Người Batutsi mất gia súc vì dịch bệnh như [[Rinderpest]] sẽ trở thành người Bahutu và tương tự những người Bahutu có gia súc sẽ trở thành Batutsi nhờ thế leo lên một nấc trong hệ thống thứ bậc xã hội. Tính lưu động xã hội này đã bất ngờ chấm dứt khi chế độ quản lý thuộc địa xuất hiện. Những thứ từng là các cấp bậc xã hội cho tới thời điểm đó, trở thành dấu hiệu xã hội xác định không thể thay đổi và vì thế đã xuất hiện "các nhóm sắc tộc Tutsi, Hutus và Twa". Một số người thậm chí còn đi xa hơn khi tự cho mình là "các bộ tộc lớn của Rwanda".
 
Một hệ thống tòa án truyền thống được gọi là Gacaca đã từng được coi là phương tiện tài phán chính giải quyết các xung đột, đóng vai trò phán xử và hòa giải. Đức vua là vị quan tòa tối cao và là trọng tài cho những trường hợp cần tới ông giải quyết. Dù hệ thống này xuất hiện một cách tự nhiên, sự hài hòa và liên kết đã từng được thiết lập trong những người Rwanda bên trong quốc gia.<ref>{{chúChú thích web|url=http://www.publications.parliament.uk/pa/cm200405/cmselect/cmniaf/303/303we32.htm|titletiêu đề=Select Committee on Northern Ireland Affairs Written Evidence|accessdatengày truy cập=ngày 26 tháng 8 năm 2007|datengày=ngày 29 tháng 12 năm 2004|publishernhà xuất bản=Parliament of the U.K.}}</ref>
 
=== Thời kỳ thuộc địa ===
Dòng 96:
Sau khi ký kết các hiệp ước với các vị thủ lĩnh vùng [[Tanganyika]] trong giai đoạn 1884-1885, Đức tuyên bố [[Tanganyika]], Rwanda và [[Burundi]] là lãnh thổ của họ. [[Gustav Adolf von Götzen|Bá tước von Götzen]] đã gặp gỡ Tutsi Mwami lần đầu tiên năm 1894. Tuy nhiên, khi chỉ có 2.500 binh sĩ tại [[Đông Phi thuộc Đức|Đông Phi]], [[Đức]] không muốn hành động nhiều trong việc thay đổi các cấu trúc xã hội tại hầu hết các vùng, đặc biệt là tại Rwanda. Sau cái chết của Mwami năm 1895, một giai đoạn bất ổn diễn ra. Những người Đức và các nhà truyền giáo khi ấy bắt đầu thâm nhập vào đất nước từ Tanganyika năm 1897-98.
 
Tới năm 1899 những người Đức đã có một số ảnh hưởng qua việc thiết lập một số cố vấn bên trong các triều đình của những vị thủ lĩnh địa phương. Đa phần thời gian của [[người Đức]] là để chiến đấu chống lại các cuộc nổi dậy tại Tanganyika, đặc biệt là cuộc [[Nổi dậy Maji-Maji|chiến tranh Maji-Maji]] giai đoạn 1905-1907. Ngày [[14 tháng 5]] năm [[1910]], [[Hội nghị châu Âu]] tại [[Bruxelles|Brussels]] ấn định các biên giới của [[Uganda]], [[Congo]], và [[Đông Phi thuộc Đức]] gồm cả Tanganyika và Ruanda-Urundi.<ref>{{chúChú thích web|url=http://www.law.fsu.edu/library/collection/LimitsinSeas/IBS052.pdf|titletiêu đề=International Boundary Study: Democratic Republic of the Congo (Zaire) -- Rwanda Boundary|accessdatengày truy cập=ngày 5 tháng 6 năm 2006|datengày=ngày 15 tháng 6 năm 1965|publishernhà xuất bản=Department of State, Washington, D.C., US}}</ref> Năm 1911, người Đức giúp người Tutsi tiêu diệt một cuộc nổi dậy của người Hutus ở vùng phía bắc Rwanda, những người không muốn chịu sự quản lý của chính quyền trung ương Tutsi.
 
Trong [[Chiến tranh thế giới thứ nhất|Thế chiến thứ I]], năm 1916, các lực lượng Bỉ tiến từ Congo vào các thuộc địa vùng Đông Phi của Đức. Sau khi [[Đức]] thua trận, [[Bỉ]] chấp nhận [[Uỷ trị của Hội quốc Liên]] năm [[1923]] cai quản Ruanda-Urundi cùng [[Congo]], trong khi [[Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland|Anh Quốc]] chấp nhận Tanganyika và các thuộc địa khác của Đức. Sau [[Chiến tranh thế giới thứ hai|Thế chiến II]] Ruanda-Urundi trở thành một [[Lãnh thổ Uỷ thác Liên hiệp quốc|"Lãnh thổ uỷ thác" Liên hiệp quốc]] do Bỉ quản lý. [[Người Bỉ]] đã can thiệp vào trong vùng ở mức độ trực tiếp cao hơn nhiều so với [[Đức]] và mở rộng giám sát cả lĩnh vực [[giáo dục]] và [[nông nghiệp]]. Nông nghiệp là lĩnh vực đặc biệt quan trọng sau hai trận hạn hán và những nạn đói năm 1928-29 và 1943. Những nạn đói đó đã dẫn tới những làn sóng di cư lớn của người Rwanda tới nước Congo láng giềng.<ref name="assets. cambridge. org">{{chúChú thích web|url=http://assets.cambridge.org/97805218/13662/sample/9780521813662ws.pdf|titletiêu đề=Re-imagining Rwanda: Conflict, Survival and Disinformation in the Twentieth Century|accessdatengày truy cập=ngày 5 tháng 6 năm 2006|datengày=ngày 1 tháng 3 năm 2002|publishernhà xuất bản=School of Oriental and African Studies, University of London (Cambridge University Press)}}</ref>
 
Những kẻ thực dân Bỉ cũng đã chấp nhận tầng lớp cai trị sẵn có trước đó, ví dụ, nhóm thiểu số Tutsi tầng lớp trên và các tầng lớp thấp hơn gồm người Hutus và người dân thường Tutsi. Tuy nhiên, vào năm 1926, Bỉ đã xóa bỏ các chức vụ "thủ lĩnh đất đai", "thủ lĩnh gia súc" và "thủ lĩnh quân đội" địa phương, và khi làm vậy họ đã tước đoạt của người Hutu quyền lực hạn chế của họ với đất đai. Trong thập niên 1920, dưới mối đe dọa quân sự, Bỉ cuối cùng đã giúp đỡ thành lập các vương quốc Hutu ở phía tây bắc, những vương quốc này được giữ quyền kiểm soát đất đai không thuộc sở hữu của Mwami, dưới sự quản lý của chính quyền hoàng gia Tutsi trung ương.<ref name="assets. cambridge. org"/> Hai hành động này đã tước đi quyền chính trị của người Hutu. Những vùng đất to lớn, đã được tập trung hóa khi ấy bị chia thành nhiều vùng đất nhỏ thuộc quyền quản lý của các thủ lĩnh.<ref>{{chúChú thích web|url=http://www.fig.net/pub/fig_2002/Ts7-7/TS7_7_rurangwa.pdf|titletiêu đề=Perspective of Land Reform in Rwanda|accessdatengày truy cập=ngày 5 tháng 6 năm 2006|datengày=ngày 26 tháng 4 năm 2002|publishernhà xuất bản=Ministry of Lands, Human Settlement, and Environmental Protection, Kigali, Rwanda}}</ref>
 
Việc phân chia những vùng đất của người Hutu khiến [[Yuhi IV nước Rwanda|Mwami Yuhi IV]] tức giận, ông đã hy vọng tập trung hơn nữa quyền lực của mình tới mức độ đủ mạnh để tống khứ những người Bỉ. Năm 1931 những âm mưu của người Tutsi chống lại chính quyền Bỉ khiến [[người Bỉ]] hạ bệ Tutsi [[Mwami Yuhi]]. Việc này khiến người Tutsi đứng lên cầm vũ khí chống [[Bỉ]], nhưng vì sợ ưu thế quân sự của Bỉ, họ không dám ra mặt nổi dậy.<ref>{{chúChú thích web|url=http://www.hrcberkeley.org/download/Rwanda-Curriculum-English1.pdf|titletiêu đề=The Teaching of the History of Rwanda: A Participatory Approach (A Reference Book for Secondary Schools in Rwanda)|accessdatengày truy cập=ngày 5 tháng 6 năm 2007|datengày=ngày 1 tháng 3 năm 2007|publishernhà xuất bản=Ministry of Education, Science, Technology and Research, Kigali, Rwanda, and UC Berkeley Human Rights Center, Berkeley, US}}</ref>
 
[[Nhà thờ]] [[Cơ Đốc giáo La Mã]] và các chính quyền thuộc địa Bỉ coi người Hutu và người Tutsi là các dòng giống sắc tộc khác nhau dựa trên những khác biệt về hình thể và cách thức di cư. Tuy nhiên, vì sự tồn tại của nhiều người Hutu giàu có, những người có cùng tình trạng tài chính (nếu không phải là hình thể) tương tự người Tutsi, người Bỉ đã sử dụng thủ đoạn phân tầng xã hội dựa theo số lượng gia súc người đó sở hữu. Bất kỳ ai có mười con gia súc hoặc hơn được coi là một thành viên của tầng lớp quý tộc Tutsi. Từ năm 1935 trở về sau, "Tutsi", "Hutu" và "Twa" được ghi rõ trên chứng minh thư.
Dòng 110:
Những kẻ thực dân Bỉ tiếp tục phải dựa vào tầng lớp quý tộc Tutsi để thu thuế và thực hiện các chính sách của mình. Họ duy trì ưu thế thống trị của Tutsi trong bộ máy hành chính thuộc địa và mở rộng hệ thống lao động Tutsi cho những mục đích thuộc địa. Liên hiệp quốc sau này đã chỉ trích chính sách này và yêu cầu tăng cường đại diện Hutu trong những vấn đề địa phương. Năm 1954 triều đình Tutsi của Ruanda-Urundi yêu cầu được độc lập khỏi Bỉ. Cùng lúc ấy họ đồng ý hủy bỏ hệ thống nô lệ giao kèo ([[ubuhake|''ubuhake'' và ''uburetwa'']]) những người Tutsi đã áp dụng với người Hutu cho tới thời điểm đó.
 
Trong thập niên 1950 và đầu thập niên 1960, một làn sóng [[Chủ nghĩa Liên Phi]] tràn khắp [[Trung Phi]], với các nhà lãnh đạo như [[Julius Nyerere]] tại Tanzania và [[Patrice Lumumba]] tại [[Congo]]. Tình cảm chống thực dân nổi lên khắp [[Trung Phi]], và một nền tảng [[chủ nghĩa xã hội]] cho sự thống nhất châu Phi cũng như sự bình đẳng cho tất cả người dân [[Châu Phi]] được xúc tiến. Chính Nyerere đã viết về sự phát triển các tầng lớp ưu tú của các hệ thống giáo dục,<ref>{{chúChú thích web|url=http://www.infed.org/thinkers/et-nye.htm|titletiêu đề=Julius Nyerere: Lifelong Learning and Informal Education|accessdatengày truy cập=ngày 27 tháng 5 năm 2007|datengày=ngày 27 tháng 5 năm 2007|publishernhà xuất bản=infed (Informal Education website), London, UK}}</ref> mà người Hutu coi là một bản cáo trạng về hệ thống giáo dục cho các tầng lớp ưu tú cho người Tutsi trong chính đất nước của họ.
 
Được khuyến khích bởi những người ủng hộ Thuyết Liên Phi, người Hutu tán thành Nhà thờ Cơ đốc giáo, và bởi những tín đồ [[Thiên Chúa giáo]] [[Bỉ]] (những người dần có ảnh hưởng ở Congo), tình cảm chống giới quý tộc Tutsi của người Hutu dần phát triển. Sự uỷ trị của [[Liên Hiệp Quốc]], tầng lớp lãnh chúa Tutsi, và những kẻ thực dân Bỉ đều góp phần vào tình trạng căng thẳng ngày càng tăng đó.
Dòng 144:
=== Quan hệ tương hỗ với các sự kiện tại Burundi ===
 
Tình hình tại Rwanda bị ảnh hưởng lớn từ tình hình Burundi. Cả hai nước đều có cộng đồng Hutu đa số, dù một chính phủ quân đội của người Tutsi đã cầm quyền tại Burundi trong nhiều thập kỷ. Sau vụ ám sát [[Louis Rwagasore|Rwagasore]], đảng UPRONA của ông phân rẽ thành các nhánh Tutsi và Hutu. Một vị Thủ tướng người Tutsi đã được vương triều chọn lựa, nhưng, một năm sau vào năm 1963, triều đình buộc phải chỉ định một vị thủ tướng người Hutu, [[Pierre Ngendandumwe]], trong nỗ lực nhằm đối phó với tình trạng bất ổn ngày càng tăng trong số người Hutu. Tuy nhiên, triều đình đã nhanh chóng phải thay thế ông bằng một vị hoàng tử Tutsi khác. Trong cuộc [[Bầu cử lập pháp Burundi năm 1965|bầu cử đầu tiên tại Burundi]] sau độc lập, năm 1965, [[Ngendandumwe]] được bầu làm Thủ tướng. Ông ngay lập tức bị một kẻ cực đoan người Tutsi ám sát và được thay thế bởi một người Hutu là Joseph Bamina. Người Hutu thắng 23/33 ghế trong cuộc tuyển cử quốc gia vài tháng sau đó, nhưng triều đình hủy bỏ kết quả cuộc bầu cử. Bamina cũng nhanh chóng bị ám sát và vị quốc vương người Tutsi đưa thư ký riêng của mình, [[Leopold Biha]], lên làm [[thủ tướng]]. Điều này dẫn tới một cuộc đảo chính của người Hut khiến Mwami phải bỏ chạy khỏi đất nước và Biha bị bắn (nhưng không chết). Quân đội dưới quyền chỉ huy ưu thế của người Tutsi, do [[Michel Micombero]] lãnh đạo đã phản ứng mãnh liệt: hầu như tất cả các chính trị gia Hutu đều bị giết hại.<ref>{{chúChú thích web|url=http://www.time.com/time/magazine/article/0,9171,941468,00.html|titletiêu đề=the Lucky Mwami|accessdatengày truy cập=ngày 6 tháng 6 năm 2007|datengày=ngày 29 tháng 10 năm 1965|publishernhà xuất bản=Time Magazine, Tampa, USA}}</ref> Micombero nắm quyền kiểm soát chính phủ và vài tháng sau hạ bệ một vị quốc vương Tutsi mới (con trai của nhà vua cũ) và xóa bỏ vai trò của triều đình. Sau đó ông đe dọa xâm lược Rwanda.<ref>{{chúChú thích web|url=http://www.time.com/time/magazine/article/0,9171,835283,00.html|titletiêu đề=Sense at the Summit|accessdatengày truy cập=ngày 6 tháng 6 năm 2007|datengày=ngày 8 tháng 4 năm 1966|publishernhà xuất bản=Time Magazine, Tampa, USA}}</ref> Một chính quyền độc tài quân sự tồn tại ở Burundi trong 27 năm tiếp theo, cho tới cuộc bầu cử tự do năm 1993.
 
7 năm bạo lực không liên tục diễn ra tại [[Burundi]] (từ 1965 - 1972) giữa người Hutu và người Tutsi. Năm 1969 một cuộc thanh trừng người Hutu của giới quân sự Tutsi diễn ra. Khi ấy, một cuộc nổi dậy mang tính địa phương của người Hutu năm 1972 đã bị quân đội Burundi trong tay người Tutsi đàn áp dã man trong cuộc [[Diệt chủng Burundi|diệt chủng người Hutu tại Burundi]] lớn nhất, với con số người chết lên tới 200.000.
Dòng 169:
Dù Liên hiệp quốc đã gửi một lực lượng hòa bình là [[Phái bộ Hỗ trợ Liên hiệp quốc cho Rwanda]] (UNAMIR) tới đây, nhưng lực lượng này không được cấp tiền, nhân sự và hoàn toàn không có hiệu quả trong cuộc nội chiến ở hai nước, như Trung tướng [[Roméo Dallaire]] đã viết trong cuốn ''[[Bắt tay với ma quỷ]]'' của ông.
 
Trong cuộc xung đột quân sự tại Rwanda, RPF bị cáo buộc ném bom thủ đô [[Kigali]]. Ngày [[6 tháng 4]] năm [[1994]], tổng thống người Hutu của Rwanda và vị tổng thống mới được bầu thứ hai của Burundi (cũng là một người Hutu) đều bị ám sát khi chiếc máy bay của họ bị bắn hạ, được cho là từ những quả tên lửa của quân đội Uganda,<ref>{{chúChú thích web|url=http://justworldnews.org/archives/ruzibiza.html|titletiêu đề=Book Review - Kagame Ordered Shooting Down OF Habyarimana’s Plane- Ruzibiza|datengày=ngày 14 tháng 11 năm 2005|publishernhà xuất bản=Hirondelle News Agency, Arusha, Tanzania}}</ref> khi đang hạ cánh tại Kigali.<ref>{{chúChú thích web|url=http://www.globalsecurity.org/military/world/war/rwanda.htm|titletiêu đề=Rwanda Civil War|datengày=ngày 27 tháng 4 năm 2005|accessdatengày truy cập=ngày 4 tháng 12 năm 2006|publishernhà xuất bản=[[GlobalSecurity.org]], Alexandria, US}}</ref> Một tòa án Pháp đã cáo buộc hành động này thuộc các lực lượng RPF của Kagame. Tuy nhiên, Kagame, một chuyên gia tình báo quân sự và tuyên truyền luôn bác bỏ và cho rằng những người Hutu bất bình đã giết hại vị tổng thống của họ, cũng như vị tổng thống người Hutu của Burundi, để bào chữa cho cuộc diệt chủng khi ấy đang diễn ra với "sự tham gia của Pháp" cũng như du kích quân Hutu.<ref>{{chúChú thích web|url=http://english.aljazeera.net/NR/exeres/323CAE89-1222-44CE-AEE7-FFF5F6622C92.htm|titletiêu đề=Kagame blames France for genocide|accessdatengày truy cập=ngày 26 tháng 11 năm 2006|datengày=ngày 26 tháng 11 năm 2006|publishernhà xuất bản=Al-Jazeera, Doha, Qatar}}</ref>
 
Trả đũa vụ ám sát hai vị tổng thống vào tháng 4, trong vòng ba tháng sau đó (tháng 4 - tháng 7 năm 1994) quân đội do người Hutu lãnh đạo và các nhóm du kích ''Interahamwe'' đã giết hại khoảng 800.000 người Tutsi và người Hutu ôn hòa trong cuộc "[[Nạn diệt chủng Rwanda|Diệt chủng Rwanda]]". Tuy nhiên, đảng RPF của người Tutsi tiếp tục tiến về [[thủ đô]], và nhanh chóng chiếm vùng phía bắc, phía đông và phía tây đất nước vào tháng 6. Hàng nghìn thường dân khác bị giết hại trong cuộc xung đột. Các quốc gia thành viên Liên hiệp quốc từ chối những yêu cầu của UNAMIR về binh lính và tài chính. Trong lúc ấy, dù [[quân đội Pháp]] đã được triển khai để "ổn định tình hình, " họ chỉ có thể sơ tán những người ngoại quốc tại đây.
Dòng 199:
Trớ trêu thay, chính Banyamulengi, nhóm người tị nạn Tutsi lớn ở Congo, đã góp phần chấm dứt cuộc xung đột. Mệt mỏi vì cuộc chiến kéo dài, họ nổi dậy chống quân đội Rwanda của Kagame và buộc lực lượng này phải rút về Rwanda, cho phép Kabila tái nắm quyền kiểm soát Đông Congo với sự hỗ trợ của các lực lượng [[Angola]] và [[Zimbabwe]].
 
Quân đội RPF Rwanda cuối cùng đã rời Congo năm 2002, để lại một làn sóng bệnh dịch và thiếu dinh dưỡng tiếp tục giết hại hàng nghìn người mỗi tháng. Tuy nhiên, quân nổi loạn Rwanda tiếp tục hoạt động (tháng 5 năm 2007) ở miền đông bắc Congo và các vùng Kivu. Họ được cho là những kẻ còn lại của các lực lượng Hutu và không được phép quay trở lại Rwanda<ref>{{chúChú thích web|url=http://www.globalsecurity.org/military/world/para/fdlr.htm|titletiêu đề=Forces Democratiques de Liberation du Rwanda (FDLR)(Democratic Liberation Forces of Rwanda)|accessdatengày truy cập=ngày 4 tháng 6 năm 2007|datengày=ngày 23 tháng 1 năm 2004|publishernhà xuất bản=Global Security.org, Alexandria, US}}</ref> without facing genocide charges, yet are not welcomed in Congo and are pursued by DRC troops.<ref>{{chúChú thích web|url=http://www.un.org/apps/news/story.asp?NewsID=22739&Cr=democratic&Cr1=congo|titletiêu đề=Ban Ki-moon condemns massacre of civilians in DR Congo|accessdatengày truy cập=ngày 23 tháng 5 năm 2007|datengày=ngày 23 tháng 5 năm 2007|publishernhà xuất bản=UN News Service}}</ref> In the first 6 months of 2007, over 260.000 civilians were displaced.<ref>{{chúChú thích web|url=http://www.un.org/apps/news/story.asp?NewsID=22692&Cr=democratic&Cr1=congo|titletiêu đề=Dangers increase for displaced in eastern DR Congo, UN says|accessdatengày truy cập=ngày 25 tháng 5 năm 2007|datengày=ngày 25 tháng 5 năm 2007|publishernhà xuất bản=UN News Service}}</ref> Congolese Mai Mai rebels also continue to threaten people and wildlife.<ref>{{chúChú thích web|url=http://news.nationalgeographic.com/news/2007/05/070523-gorillas-hostage.html|titletiêu đề=The Endangered Gorillas "held hostage" by rebels in African Park|accessdatengày truy cập=ngày 23 tháng 5 năm 2007|datengày=ngày 23 tháng 5 năm 2007|publishernhà xuất bản=National Geographic Society, Washington, D.C., Kigali}}</ref> Dù có nỗ lực to lớn để giải giáp các nhóm du kích, với sự hỗ trợ của quân lính Liên hiệp quốc, những du kích quân cuối cùng chỉ chịu từ bỏ vũ khí năm 2007. Tuy nhiên, những cuộc xung đột đẫm máu ở các vùng đông bắc Congo giữa các bộ tộc địa phương tại vùng Ituri, ban đầu không liên quan tới cuộc xung đột Hutu-Tutsi nhưng đã trở thành một phần của cuộc Chiến tranh Congo lần thứ hai, vẫn tiếp diễn.
 
Tại Burundi, cuộc [[Nội chiến Burundi]] từ 1993 tới 2006 trùng khớp với cuộc Chiến tranh Congo lần thứ nhất và thứ hai. Ít nhất 300.000 người Burundi đã thiệt mạng, và người tị nạn sang [[Tanzania]] và [[Congo]] đã khiến rất nhiều người phải rời bỏ nhà cửa. Tháng 8 năm 2005, một người Hutu Thiên chúa giáo, [[Pierre Nkurunziza]], được bầu làm tổng thống Burundi. Ít nhất ba thỏa thuận ngừng bắn đã được ký kết giữa các nhóm phiến loạn và các lực lượng Burundi, vào năm 2003, 2005, và tháng 9 năm 2006.
Dòng 210:
thống người Hutu, [[Pasteur Bizimungu]], năm 1994. Nhiều người tin rằng ông ta chỉ là một vị tổng thống con rối, tuy nhiên khi Bizimungu bắt đầu chỉ trích chính phủ Kagame năm 2000, ông đã bị lật đổ khỏi chức vụ tổng thống và chính Kagame lên nắm giữ chức này. Bizimungu ngay lập tức thành lập một đảng đối lập (the PDR), nhưng nó đã bị chính phủ Kagame cấm hoạt động. Bizimungu bị bắt giữ năm 2002 vì tội phản bội, kết án 15 năm tù, nhưng đã được thả ra theo lệnh ân xá của tổng thống năm 2007.
 
Sau khi nắm quyền kiểm soát chính phủ năm 1994 sau cuộc nội chiến, đảng RDF của người Tutsi đã viết lại lịch sử cuộc thảm sát và nêu các sự kiện theo quan điểm của họ trong hiến pháp năm 2003.<ref name="Government of Rwanda, Kigali">{{chúChú thích web|url=http://www.cjcr.gov.rw/eng/constitution_eng.doc|titletiêu đề=The Constitution of the Republic of Rwanda|accessdatengày truy cập=ngày 4 tháng 6 năm 2007|datengày=ngày 26 tháng 5 năm 2003|publishernhà xuất bản=Government of Rwanda, Kigali}}</ref> Năm 2004, một buổi lễ được tổ chức tại Kigali ở đài Tưởng niệm Gisozi (do [[Aegis Trust]] tài trợ và được nhiều chính khách nước ngoài tham dự) để kỷ niệm năm thứ mười của cuộc thảm sát, và đất nước này dành ra một ngày quốc tang mỗi năm vào ngày 7 tháng 4 để kỷ niệm sự kiện này. Các lãnh đạo vụ thảm sát người Hutu đang bị xét xử tại [[Tòa án Tội phạm Rwanda]], trong hệ thống Tòa án Quốc gia Rwanda, và, hầu hết ở gần đây, qua chương trình công lý chính thức [[Gacaca]]. Những báo cáo gần đây nêu ra một số vụ giết hại những người còn sống sót vì đã ra làm chứng tại gacaca.<ref>{{chúChú thích web|url=http://www.guardian.co.uk/rwanda/story/0,,1962910,00.html|titletiêu đề=Spate of killings obstructsRwanda's quest for justice|accessdatengày truy cập=ngày 12 tháng 3 năm 2006|datengày=ngày 12 tháng 3 năm 2006|publishernhà xuất bản=[[The Observer]]}}</ref>
 
Nhiều người cho rằng việc đưa ra tưởng nhớ vụ thảm sát mà không có sự chấp nhận những tội ác do đảng RDF của người Tutsi tiến hành là thiên lệch, và là một phần trong chiến dịch tuyên truyền đang diễn ra của chính phủ do người Tutsi quản lý, là chính phủ độc đảng ở thời điểm hiện tại.<ref>{{chúChú thích web|url=http://www.news.com.au/heraldsun/story/0,,21517731-663,00.html|titletiêu đề=Neutrality of Rwandan genocide probe questioned|accessdatengày truy cập=ngày 7 tháng 4 năm 2007|datengày=ngày 7 tháng 4 năm 2007|publishernhà xuất bản=The Herald Sun, Melbourne, Australia, and Le Devoir, Montreal, Canada|archiveurl=http://web.archive.org/web/20071210093416/http://www.news.com.au/heraldsun/story/0,,21517731-663,00.html|archivedate=ngày 10 tháng 12 năm 2007}}</ref> Tác giả cuốn Hotel Rwanda, [[Paul Rusesabagina]], đã yêu cầu [[Paul Kagame]], tổng thống hiện tại của Rwanda, phải được đưa ra xét xử như một tội phạm chiến tranh.<ref>{{chúChú thích web|url=http://taylor-report.com/articles/index.php?id=28|titletiêu đề=Hero of Hotel Rwanda Calls Kagame a War Criminal.|accessdatengày truy cập=ngày 28 tháng 5 năm 2007|datengày=ngày 11 tháng 12 năm 2006|publishernhà xuất bản=The Taylor Report, University of Toronto, Canada}}</ref> Cuộc xâm lược Rwanda của Kagame năm 1990 và Zaire/Congo trong cuộc Chiến tranh Congo lần thứ nhất và thứ hai đã gây ra cái chết của hơn 4 triệu người.<ref>{{chúChú thích web|url=http://www.guardian.co.uk/congo/story/0,12292,1370528,00.html|titletiêu đề=Congo death toll up to 3.8m|datengày=ngày 10 tháng 12 năm 2004|publishernhà xuất bản=Guardian Unlimited, Manchester, UK}}</ref>
 
Cuộc bầu cử đầu tiên từ cuộc xâm lược Rwanda của các lực lượng Kagame năm 1990 (và sự thành lập chính phủ quân sự Kagame năm 1994) được tổ chức năm 2003. Kagame, người đã được chính phủ của ông chỉ định làm tổng thống, sau đó đã "trúng cử" tổng thống với 95% số phiếu. Các đảng đối lập đã bị cấm tới ngay trước cuộc bầu cử năm 2003. Sau cuộc bầu cử, năm 2004, một sửa đổi hiến pháp cấm các đảng chính trị thể hiện liên minh với "Hutu" hay "Tutsi" đã được đưa ra. Tuy nhiên, đảng RPF, một tổ chức chính trị chủ yếu gồm người Tutsi, không bị giải tán và vì thế vẫn tiếp tục nắm giữ ưu thế của mình. Đa số nhà quan sát vì thế không tin cuộc bầu cử năm 2003 là tự do và mang tính đại diện cho đất nước.<ref>{{chúChú thích web|url=http://socrates.berkeley.edu/~warcrime/Papers/webley-thesis.pdf|titletiêu đề=Report on Rwanda|accessdatengày truy cập=ngày 4 tháng 6 năm 2007||publishernhà xuất bản=UC Berkeley War Crimes Study Center}}</ref> Cuộc bầu cử đã được so sánh với cuộc "bầu cử tự do" của đảng [[ZANU]] của Robert Mugabe tại [[Zimbabwe]]. Cuộc bầu cử tổng thống tiếp theo sẽ được tổ chức năm 2010.
 
=== Tái thiết ===
Dòng 220:
Rwanda ngày nay đang phải chiến đấu để hồi phục và tái thiết, nhưng đã có những dấu hiệu về một sự phát triển khá nhanh chóng. Một số người Rwanda tiếp tục vật lộn với di sản của 60 năm chiến tranh.
 
Một cơ quan tham gia tái thiết Rwanda là Benebikira Sisters, một tổ chức các nữ tu sĩ Thiên chúa giáo, họ đang chú trọng vào giáo dục và y tế. Từ cuộc diệt chủng, các nữ tu đã cung cấp chỗ ở và nuôi nấng hàng trăm trẻ mồ côi, và lập ra các trường giáo dục cho thế hệ tiếp sau của Rwanda.<ref>{{chúChú thích web|url=http://www.neacdo.com/jobs/benebikira.php|titletiêu đề=Benebikira Sisters Foundation|accessdatengày truy cập=ngày 4 tháng 6 năm 2007||publishernhà xuất bản=New England Association of Catholic Development Officers, Worcester, MA}}</ref>
 
Các thị trường xuất khẩu chính của Rwanda là Bỉ, Đức, và Trung Quốc. Vào tháng 4 năm 2007, một thỏa thuận đầu tư và thương mại giữa Bỉ và Rwanda đã bắt đầu có hiệu lực. Bỉ đóng góp $25–35 triệu euro mỗi năm cho Rwanda.<ref>{{chúChú thích web|url=http://www.bilaterals.org/article.php3?id_article=7923|titletiêu đề=Rwanda, Belgium to Sign Pacts|accessdatengày truy cập=ngày 17 tháng 4 năm 2007|datengày=ngày 17 tháng 4 năm 2007|publishernhà xuất bản=The New Times, Kigali}}</ref>
 
Chương trình hợp tác của Bỉ với Bộ nông nghiệp và gia súc tiếp tục phát triển và tái thiết các cơ sở nông nghiệp trong nước. Nước này cung cấp các trang thiết bị nông nghiệp và giống cho Rwanda. Bỉ cũng giúp tái xây dựng ngành đánh bắt thủy sản trên Hồ Kivu, với giá trị US$470.000, năm 2001.<ref>{{chúChú thích web|url=http://www.monitor.co.ug/specialincludes/mplsups/rwandagen/gen16.php|titletiêu đề=Belgium on Mission to Rebuild Rwanda|accessdatengày truy cập=ngày 3 tháng 6 năm 2007|datengày=ngày 3 tháng 6 năm 2007|publishernhà xuất bản=Daily Monitor, Kampala, Uganda}}</ref>
 
Ở Đông Rwanda, Sáng kiến Phát triển Săn bắn Clinton, cùng với Đối tác Sức khỏe, đang giúp đỡ cải thiện hiệu suất nông nghiệp, cải thiện chất lượng nước và các dịch vụ y tế, và giúp các sản phẩm nông nghiệp tiếp cận với các thị trường quốc tế.<ref>{{chúChú thích web|url=http://www.clintonfoundation.org/cf-pgm-chdi-home.htm|titletiêu đề=CHDI Overview|accessdatengày truy cập=ngày 4 tháng 6 năm 2007|datengày=ngày 14 tháng 6 năm 2007|publishernhà xuất bản=William J. Clinton Foundation, Little Rock, US}}</ref><ref>{{chúChú thích web|url=http://www.pih.org/where/Rwanda/Rwanda.html|titletiêu đề=Rwanda / Inshuti Mu Buzima|accessdatengày truy cập=ngày 4 tháng 6 năm 2007|datengày=tháng 1 năm 2007|publishernhà xuất bản=Partners in Health, Boston, US}}</ref>
 
== Chính trị ==
Dòng 248:
Tuy nhiên, vào năm 2006 cơ cấu quốc gia đã được tổ chức lại. Hiện không rõ nó ảnh hưởng sau tới các tỷ lệ đại biểu được bầu.
 
Chính phủ Rwandan hiện nay, do [[Paul Kagame]] lãnh đạo, đã được ca ngợi vì mang lại được an ninh, sự hòa giải và phát triển kinh tế, nhưng cũng bị chỉ trích bởi một số hành động quá thiên về quân sự và không khoan dung đối lập. Đất nước này hiện thu hút nhiều khách du lịch quốc tế và được coi là một điểm đến an toàn của du khách, với chỉ một vụ tấn công lựu đạn duy nhất vào đầu năm 2007 quanh Vườn quốc gia Volcanoes gần Gisenyi.<ref>{{chúChú thích web|url=http://://travel.state.gov/travel/cis_pa_tw/cis/cis_1007.html|titletiêu đề=Consular Information Sheet -- Rwanda|accessdatengày truy cập=ngày 4 tháng 6 năm 2007|datengày=ngày 19 tháng 3 năm 2007|publishernhà xuất bản=US Dept. of State, Washington, D.C.}}</ref>
 
Với các đài truyền thanh và báo chí độc lập mới, Rwanda đang nỗ lực xây dựng một nền [[tự do báo chí|báo chí tự do]], nhưng đã có những báo cáo về sự mất tích của các nhà báo và những rắc rối với những bài báo có ý nghi ngờ chính phủ.<ref>{{chúChú thích web|url=http://www.rsf.org/article.php3?id_article=20737|titletiêu đề=Rwanda - 2007 Annual Report|datengày=ngày 2 tháng 5 năm 2007|publishernhà xuất bản=[[Phóng viên không biên giới|Reporters Without Borders]], Paris, France|archiveurl=http://web.archive.org/web/20070524003647/http://www.rsf.org/article.php3?id_article=20737|archivedate=ngày 24 tháng 5 năm 2007}}</ref><ref>{{chúChú thích web|url=http://www.opcofamerica.org/press_freedom/letters/080207_rwandaletter.php|titletiêu đề=OPC Letter to Rwanda|datengày=ngày 15 tháng 2 năm 2007|publishernhà xuất bản=Overseas Press Club of America, New York, USA}}</ref>
Việc tiếp sóng France International đã bị chính phủ Rwanda ngăn cấm năm 2006 khi đài này bắt đầu chỉ trích Kagame và RPF.
 
Dòng 275:
Đất nước nhỏ này nằm gần trung tâm châu Phi, vài độ chếch hướng nam [[xích đạo]]. Rwanda ngăn cách với [[Cộng hòa Dân chủ Congo]] bởi [[Hồ Kivu]] và thung lũng [[Sông Ruzizi]] ở hướng tây; ở phía bắc nước này giáp với [[Uganda]], và phía đông với [[Tanzania]], phía nam với [[Burundi]]. Thủ đô [[Kigali]] nằm ở trung tâm đất nước.
 
Vùng nông thôn Rwanda chủ yếu là những cánh đồng cỏ và những trang trại nhỏ trải dài theo những ngọn đồi, với những diện tích bị ngăn cách bởi các dãy núi chạy về phía đông nam từ một dãy núi lửa ở phía tây bắc. Sự phân chia giữa các hệ thống sông [[Sông Congo|Congo]] và [[Sông Nin|Nin]] trải dài từ bắc xuống nam qua tây Rwanda ở độ cao trung bình lên tới 9.000 foot (2.740&nbsp; m). Trên những sườn phía tây dải núi này, các vùng đất dốc bất ngờ chuyển hướng về [[Hồ Kivu]] và châu thổ sông Ruzizi, và hình thành một phần của [[Thung lũng tách giãn Lớn]]. Các sườn phía đông thoai thoải hơn, với các ngọn đồi trải dài suốt những vùng đất cao trung tâm và dần nâng độ cao, tới các đồng bằng, đầm lầy và hồ nước ở vùng biên giới phía đông. Vì thế nước này cũng được gọi là "Vùng đất một nghìn quả đồi". Năm 2006, một đoàn thám hiểm của người Anh đã thông báo rằng họ định vị được dòng đầu nguồn dài nhất của [[Sông Nin]] tại [[Rừng Nyungwe]].<ref>{{chúChú thích web|url=http://news.bbc.co.uk/2/hi/uk_news/england/hampshire/4864782.stm|titletiêu đề=Team reaches Nile's 'true source'|accessdatengày truy cập=ngày 4 tháng 12 năm 2006|datengày=ngày 31 tháng 3 năm 2006|publishernhà xuất bản=[[BBC|BBC News]]}}</ref>
 
== Khí hậu ==
Dòng 288:
Hình thức [[vận tải công cộng]] chủ yếu trong nước là [[taxi chung]], với các tuyến cao tốc nối các thành phố lớn và nội bộ ở hầu hết các làng dọc theo các con đường chình của đất nước. Dịch vụ [[xe buýt]] dẫn tới nhiều quốc gia lân cận.
 
Năm 2006, chính phủ Trung Quốc đã đề xuất tài trợ cho một cuộc nghiên cứu xây dựng một tuyến đường sắt nối từ [[Bujumbura]] ở [[Burundi]] tới [[Kigali]] ở Rwanda tới Isaki ở [[Tanzania]].<ref>{{chúChú thích web|url=http://railwaysafrica.com/index.php?option=com_content&task=view&id=563&Itemid=35|titletiêu đề=China to Assist Rwanda|datengày=ngày 7 tháng 9 năm 2006|publishernhà xuất bản=Railways Africa, Gauteng, South Africa}}</ref> Một đoàn đại biểu từ ngành đường sắt [[Hoa Kỳ|Mỹ]] [[BNSF]] cũng đã gặp Tổng thống Paul Kagame để đàm phán về một con đường từ Kigali tới Isaki và cùng lúc ấy chính phủ thông báo rằng họ đã lựa chọn một công ty tư vấn Đức để tiến hành công việc chuẩn bị cho tuyến đường đề xuất.<ref>{{chúChú thích web|url=http://allafrica.com/stories/200704250668.html|titletiêu đề=Rwanda: Kagame Meets Railway Expert|datengày=ngày 27 tháng 4 năm 2007|publishernhà xuất bản=The New Times, Kigali, Rwanda}}</ref>
 
== Kinh tế ==
{{chính|Kinh tế Rwanda}}
 
Rwanda là một quốc gia nông thôn với khoảng 90% dân số sống bằng nông nghiệp (chủ yếu tự cung tự cấp). Nước này nằm kín trong lục địa với rất ít nguồn tài nguyên thiên nhiên và hạ tầng công nghiệp.<ref name="WFP">{{chúChú thích web|url=http://www.wfp.org/country_brief/indexcountry.asp?country=646|titletiêu đề=World Hunger - Rwanda|accessdatengày truy cập=ngày 4 tháng 12 năm 2006|publishernhà xuất bản=[[World Food Programme]]}}</ref> Các mặt hàng xuất khẩu chính gồm [[cà phê]] và [[chè]], những năm gần đây có thêm các sản phẩm khoáng sản (chủ yếu [[Coltan]], được dùng trong chế tạo hàng điện tử các thiết bị viễn thông như điện thoại di động) và hoa. Du lịch cũng là ngành có tốc độ tăng trưởng tốt, chủ yếu là du lịch sinh thái (Rừng Nyungwe, Hồ Kivu) và loài khỉ đột (gorilla) nổi tiếng thế giới và đặc hữu tại vườn Virunga. Nước này có Tổng sản phẩm quốc gia (GNP) thấp, và từng được coi là một [[Quốc gia nghèo có gánh nặng nợ nần lớn]] (HIPC). Năm 2005, hoạt động kinh tế và hiệu năng quản lý chính phủ nước này khiến Các định chế Tài chính Thế giới đã quyết định xóa bỏ hầu như toàn bộ các khoản nợ của họ.
 
Theo [[Chương trình Lương thực Thế giới]], ước tính 60% dân số sống dưới mức nghèo khổ và từ 10-12% phải đối mặt với tình trạng mất an ninh lương thực hàng năm.<ref name="WFP" />
Dòng 299:
Quản lý đất đai là yếu tố quan trọng nhất trong những cuộc xung đột tại Đông Phi.
 
Đáng ngạc nhiên, dù hệ thống phong kiến về sử dụng đất đai đã biến mất với cuộc "Cách mạng Xã hội" năm 1959, hoạt động lĩnh canh lại xuất hiện sau sự quay trở lại của chính phủ RPF năm 1994, với các chính sách sử dụng đất của chính phủ RPF mới được thể chế hóa thành luật pháp năm 2005.<ref>{{chúChú thích web|url=http://www.africa.kyoto-u.ac.jp/kiroku/asm_suppl/abstracts/pdf/ASM_s35/5TAKEUCHI.pdf|titletiêu đề=Regional Differences Regarding Land Tenancy in Rural Rwanda, with Special Refernce to Sharecropping in a Coffee Production Area|accessdatengày truy cập=ngày 5 tháng 6 năm 2007|datengày=ngày 1 tháng 3 năm 2007|publishernhà xuất bản=African Study Monographs Suppl. 35: 111-138, Japan External Trade Organization, Tokyo, Japan}}</ref>
 
Những luật lệ về sử dụng đất đai này có mục đích chuyển những mảnh đất nhỏ, phân tán và có sản lượng thấp trở thành những khu vực canh tác lớn có sản lượng cao sản xuất ra sản phẩm cho thị trường quốc tế (cũng như thị trường địa phương). Nếu nông dân không thể thực hiện kế hoạch nhà nước, đất đai của họ sẽ bị trưng thu không bồi thường và mảnh đất đó có thể bị giao cho người khác.
Dòng 307:
Tây bắc Rwanda có truyền thống áp dụng một hình mẫu tập trung đất đai dưới sự quản lý địa phương, chứ không phải dưới sự quản lý trung ương của Mwami, được gọi là "ubokonde bw' isuka" ở thời tiền thuộc địa.
 
Vì thế vùng tây bắc Rwanda phản đối mạnh mẽ nhất chính sách quản lý đất đai trung ương tương tự igikingi, lấy đi quyền của những người sở hữu địa phương. Một số nông dân phản đối chính sách này khi nó bắt đầu được áp dụng trong thập niên 1990 đã bị phạt hay bỏ tù; chính sách này hiện vẫn gây nhiều tranh cãi.<ref>{{chúChú thích web|url=http://www.law.emory.edu/WAL/WAl-studies/rwanda.htm|titletiêu đề=Women's Land Rights in Rwanda|accessdatengày truy cập=ngày 25 tháng 4 năm 2001|datengày=ngày 25 tháng 4 năm 2001|publishernhà xuất bản=Rwanda Initiative for Sustainable Development (RISD) NGO, Kigali, Rwanda}}</ref>
 
Luật cũng xác định chính sách bắt buộc tập trung khu vực sinh sống theo đó những người sống rải rác phải rời về các khu "làng" tập trung do chính phủ lập ra được gọi là imidugudu.
Dòng 315:
Khi chính sách này được áp dụng trên phạm vi rộng hồi cuối thập niên 1990, chính quyền trong một số trường hợp đã dùng tới vũ lực, hình phạt và nhà tù để tiến hành tái định cư.
 
Ít nhất hai imidugudu đã được thành lập ở phía tây bắc Rwanda năm 2005, dẫn tới việc mất đất đai của những nông dân địa phương. Dù luật tuyên bố công nhận những quyền theo phong tục về đất đai, nó bác bỏ việc sử dụng theo phong tục việc sử dụng những vùng đầm lầy của người nghèo và xóa bỏ các quyền quan trọng của những vị chủ đất giàu có (abakonde) ở vùng tây bắc.<ref>{{chúChú thích web|url=http://hrw.org/english/docs/2006/01/18/rwanda12286.htm|titletiêu đề=Human Rights Overviews: Rwanda|accessdatengày truy cập=ngày 18 tháng 1 năm 2006|datengày=ngày 18 tháng 1 năm 2006|publishernhà xuất bản=Human Rights Watch, New York, US}}</ref>
 
Tuy nhiên, chính sách này cũng đảm bảo khả năng của chính phủ trong việc tiến hành [[quyền trưng dụng]] vì những lý do môi trường, mà họ đã thực hiện vào năm 2007 khi đuổi những người định cư xâm lấn khu vực Hồ Kivu trong một nỗ lực nhằm bảo vệ môi trường ở đó.<ref>{{chúChú thích web|url=http://allafrica.com/stories/200706041265.html|titletiêu đề=Rwanda: Eviction of Lake Kivu Encroachers Begins|accessdatengày truy cập=ngày 4 tháng 6 năm 2007|datengày=ngày 3 tháng 6 năm 2007|publishernhà xuất bản=New Times, Kigali, Rwanda}}</ref>
 
Chính phủ cũng đang tìm kiếm biện pháp nhằm thu khí methane từ Hồ Kivu cung cấp cho nhu cầu năng lượng quốc gia.
 
Không có thị trường vốn đúng nghĩa tại Rwanda. Cho tới gần đây chính phủ vẫn là bên cung cấp chủ yếu các dịch vụ kinh tế. Các thị trường tiền tệ và tài chính chủ yếu thuộc 9 ngân hàng và 6 công ty bảo hiểm với sở hữu ưu thế của nhà nước.<ref>{{chúChú thích web|url=http://www.nepad.org/2005/files/aprm/FINAL_RWANDA_REPORT_SEPT_22_2006.pdf|titletiêu đề=Country Review Report of the Country of Rwanda|datengày=2005-11|accessdatengày truy cập=ngày 22 tháng 9 năm 2006|publishernhà xuất bản=African Peer Review Mechanism, Midrand, South Africa}}</ref> Hơn 200 định chế [[tín dụng nhỏ]], thường được các nhà tài trợ nước ngoài hỗ trợ, đã xuất hiện ở Rwanda (đặc biệt từ năm 2004), nhưng nhiều tổ chức không đăng ký, không được kiểm soát và thường quản lý kém cỏi. Nhiều tổ chức đã bị chính phủ Rwanda đóng cửa năm 2006.<ref>{{chúChú thích web|url=http://microcapital.org/cblog/index.php?/archives/267-The-Microcredit-Investment-Legacy-of-Plundering-Poor-Peoples-Savings-National-Bank-of-Rwanda-Shuts-Down-8-Local-Microfinance-Institutions-MFIs. html#extended
| titletiêu đề=The Microcredit Investment Legacy of Plundering Poor People’s Savings: National Bank of Rwanda Shuts Down 8 Local Microfinance Institutions (MFIs)|datengày=ngày 24 tháng 6 năm 2006|publishernhà xuất bản=MicroCapital (Prisma MicroFinance), Boston, USA}}</ref>
 
Tháng 9 năm 2006, Ngân hàng Thế giới đã phê duyệt khoản trợ cấp US$10 triệu cho Rwanda để phát triển kỹ thuật thông tin và viễn thông.<ref>{{chúChú thích web|url=http://i-policy.typepad.com/informationpolicy/2006/09/rwanda_world_ba.html|titletiêu đề=Rwanda: World Bank gives US$10m for ICTs|datengày=ngày 14 tháng 9 năm 2006|publishernhà xuất bản=The New Times, Kigali, Rwanda}}</ref>
 
== Nhân khẩu ==
Dòng 354:
Người pygmy [[Twa]] được coi là một trong những chủng tộc lâu đời nhất trên trái đất, theo [[Giả thuyết một nguồn gốc gần đây|những phân tích mitochondrial DNA]]. Cùng với người [[Efé]] và [[Mbuti|BaMbuti]] tại [[vùng Ituri]], [[Aka (bộ tộc Pygmy)|BayAka]] tại Cộng hòa Trung Phi, người [[Bushmen|San (Bushmen)]] tại Namibia, và người [[Hadzabe]] tại Tanzania, họ là đại diện cho những hậu duệ còn lại của một số trong những nền văn hóa lâu đời nhất trên trái đất. Tương tự như đối với một số nhóm người khác, một số người Twa vẫn sinh sống theo kiểu [[săn bắt và hái lượm|săn bắn hái lượm]] (trong [[Rừng Nyungwe|Vườn Quốc gia Rừng Nyungwe]]), dù đa số đã bị buộc phải chấp nhận trở thành những lao động cấp bậc thấp trong xã hội khi đất đai ngày một mất đi. Với sự nhấn mạnh mới đây trên sự "không chủng tộc" tại Rwanda, những quyền lợi của họ thậm chí còn mất đi và họ đang ở ven rìa xã hội Rwanda.
 
Người "Intore, " từng là giới tinh hoa của quân đội Tutsi truyền thống, không chỉ được huấn luyện quân sự mà còn cả nhảy cao và nhảy múa. Họ nổi tiếng về một kỹ thuật đáng chú ý cho phép nhảy cao tới 7 feet (2.4 mét). Intore đã trở nên nổi tiếng toàn thế giới với tư cách các vũ công năm 1958 khi cuộc triển lãm thế giới (World Expo) được tổ chức ở Brussels. Ngày nay các vũ công Intore là một phần của truyền thống dân gian đặc sắc của Rwanda.<ref>{{chúChú thích web|url=http://www.footprint-adventures.co.uk/rwandainfo.html|titletiêu đề=Rwanda Land of Thousand Hills (Butare and the National Museum)|accessdatengày truy cập=ngày 1 tháng 7 năm 2007|publishernhà xuất bản=Footprint Adventures, Lincoln, UK}}</ref><ref>{{chúChú thích web|url=http://www.rwanda-intore-dancers.com/|titletiêu đề=Rwanda Intore Dancers|accessdatengày truy cập=ngày 1 tháng 7 năm 2007|publishernhà xuất bản=Rwanda Direct, Kigali, Rwanda}}</ref>
 
== Xem thêm ==