Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Ngựa hoang Mông Cổ”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →‎Nguy cơ: replaced: 3 con → ba con, 4 con → bốn con using AWB
n clean up using AWB
Dòng 22:
| synonyms = ''hagenbecki'' <small>[[Matschie]], 1903</small><br>''prjevalskii'' <small>[[James Cossar Ewart|Ewart]], 1903</small>''<br>typicus'' <small>[[Hilzheimer]], 1909</small>
}}
'''Ngựa hoang Mông Cổ''' hay còn gọi là '''ngựa hoang Przewalski''' (phát âm như là: {{IPAc-en|ʃ|ɨ|ˈ|v|æ|l|s|k|i}} {{respell|shə|VAL|skee}} hoặc {{IPAc-en|p|ʃ|ɨ|ˈ|v|æ|l|s|k|i}} {{respell|pshə|VAHL|skee}};<ref>http://dictionary.reference.com/browse/przewalski's+horse Dictionary.reference.com</ref> Khalkha {{Lang-mn|тахь}}, '''takhi'''; [[Cáp Ba Hà|Ak Kaba]] [[tiếng Tuvan|Tuvan]]: [{{IPA|daɣə//daɢə}}] '''dagy'''; tiếng Ba Lan: {{IPA-pl|pʂɛˈvalskʲi|}})<ref name=STWH>{{citeChú thích web | url = http://www.savethewildhorse.org/takhi.html |archiveurl=http://archive.is/www.savethewildhorse.org/takhi.html |archivedate=12 Sep 2012| titletiêu đề = The Takhi | publishernhà xuất bản= International Takhi-Group | accessdatengày truy cập= October 25, 2010 }}</ref> hay còn được gọi theo tên khác là '''ngựa hoang châu Á''' là những con [[ngựa hoang]] phân bố trên những [[thảo nguyên]] ở [[Mông Cổ]]. Ngựa hoang Mông Cổ là một trong những biểu tượng của [[hệ động vật Mông Cổ]] và là tổ tiên của giống [[ngựa Mông Cổ]]. Ngựa Przewalski được đặt tên theo nhà thám hiểm người Nga là [[:ru:Пржевальский, Николай Михайлович|Nikolai Mikhailovich Przewalski]], người đầu tiên phát hiện ra chúng vào khoảng năm [[1880]] tại khu vực sa mạc Gobi.
 
Ngựa Przewalski được xếp vào nhóm có nguy cơ tuyệt chủng trong thiên nhiên. Từ năm [[1960]], loài ngựa quý hiếm này đã được liệt vào nhóm động vật có nguy cơ tuyệt chủng cao của [[Sách Đỏ]]. Đây phân loài quý hiếm và nguy cấp của [[ngựa hoang]] có nguồn gốc từ các thảo nguyên Trung Á, đặc biệt là Mông Cổ. Từng được xem là tuyệt chủng, ngựa pregoaski đã được tái thả vào tự nhiên Vườn quốc gia Khustain Nuruu, Khu bảo tồn thiên nhiên Takhin Tal và Khu bảo tồn thiên nhiên Khomiin Tal.<ref>[http://www.nhandan.com.vn/khoahoc/thien-nhien/item/22270802-nam-ngo-noi-ve-nhung-loai-ngua-hoang-da.html Năm Ngọ: nói về những loài ngựa hoang dã]</ref>
 
==Đặc điểm==
Một con ngựa hoang Mông Cổ trưởng thành nặng khoảng 250-300 [[kg]] hoặc từ 250–350&nbsp;kg, cao tầm 1m30 và dài 2[[m]].<ref name="mard.gov.vn">{{Chú thích web|url=http://www.mard.gov.vn/pages/news_detail.aspx?NewsId=19993|titletiêu đề=Khôi phục giống ngựa hoang Przewalski|author=Linh Chi|datengày=ngày 15 tháng 11 năm 2011|publishernhà xuất bản=Cổng thông tin điện tử Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn|accessdatengày truy cập=ngày 5 tháng 1 năm 2014}}<br>[http://www.zoopraha.cz/en/animals/we-help-them-to-survive/7678-return-of-the-przewalski-s-horse-to-mongolia Return of the Przewalski’s Horse to Mongolia] Prague Zoo {{en}}</ref> Loài ngựa màu [[nâu]] này có chiếc cổ ngắn một cách đặc trưng. Đặc biệt, ngựa Przewalski có 66 nhiễm sắc thể thay vì 64 như những loài ngựa khác.<ref name="Gaddy">{{Chú thích sách|last=Gaddy|first=L. L. |title=Biodiversity: Przewalski's Horse, Edna's Trillium, the Giant Squid, and Over 1.5 Million Other Species|url=http://books.google.be/books?id=1Rqfio1iov8C&pg=PA6&dq=giant+squid+chromosomes&hl=en&sa=X&ei=sVNJUcm2KYWr0AWwhoGoAg&redir_esc=y#v=snippet&q=66%20chromosones&f=false|year=2005|page=6}}</ref> Thức ăn chủ yếu của loài ngựa [[thảo nguyên]] này là [[cỏ]] và một số loài thực vật đặc biệt. Vào mùa đông, khi cây cỏ không phát triển một số khu bảo tồn sẽ cho chúng ăn [[cỏ]] khô, [[Họ Đậu|đậu]] và [[ngô]]. Đây cũng là loài ngựa ăn cỏ lâu nhất với thời gian ăn cỏ trong ngày vượt quá 12 tiếng. Ngựa hoang Mông Cổ có thể phát hiện nguy hiểm từ khoảng cách 300 mét và bỏ chạy ngay lập tức, chúng có khả năng chịu rét và chịu nóng rất tốt cũng như tốc độ chạy tương đối tốt lên đến 60&nbsp;km/giờ. Loài ngựa này có vòng đời tương đối dài, từ 20-25 năm.<ref>[http://www.nhandan.com.vn/khoahoc/thien-nhien/item/22270802-nam-ngo-noi-ve-nhung-loai-ngua-hoang-da.html Năm Ngọ nói về loài ngựa hoang dã]</ref> Khác với các loài ngựa "hoang" khác đã từng được [[thuần hóa]], loài ngựa hoang Mông Cổ chưa bao giờ được thuần hóa, và là loại ngựa hoang thật sự duy nhất còn tồn tại đến nay.<ref>{{Chú thích sách|title=|url=http://books.google.com/books?id=Bvg99Qq54nUC&pg=PA219&dq=only+true+wild+horse&hl=en&sa=X&ei=GaDJUqOVGJfsoASx_ID4Bw&ved=0CEoQ6AEwBQ#v=onepage&q=true%20wild&f=false|title=Przewalski's Horse: The History and Biology of an Endangered Species|pages=bìa sau|author=Lee Boyd, Katherine A. Houpt|year=1994|publisher=SUNY Press}} 10-ISBN 0-7914-1889-8; 13-ISBN 978-0-7914-1889-5; [http://www.worldcat.org/wcpa/oclc/28256312 OCLC 28256312]</ref>
 
==Lịch sử==
Dòng 36:
==Nguy cơ==
[[Tập tin:Mongolian Wild Horse 001.jpg|300px|nhỏ|phải|Một con ngựa hoang Mông Cổ]]
Số ngựa Przewalski giảm mạnh sau năm [[1945]] và chỉ còn lại một nhóm nhỏ trong những năm tiếp theo.<ref name="vnExpress">{{Chú thích web|url=http://vnexpress.net/tin-tuc/khoa-hoc/bao-dong-ve-so-phan-cua-ngua-hoang-2049892.html|titletiêu đề=Báo động về số phận của ngựa hoang|author=B.H.|datengày = ngày 28 tháng 1 năm 2003 |publishernhà xuất bản=vnExpress - Tin nhanh Việt Nam|accessdatengày truy cập=ngày 5 tháng 1 năm 2014}}</ref> Nguyên nhân của tình trạng này là săn bắn, hoạt động quân sự và áp lực sử dụng đất gia tăng. Ngoài ra, với số lượng ít ỏi ngựa Przewalski trong tự nhiên có thể dẫn đến [[giao phối cận huyết]]. Vào thế kỷ 20, loài ngựa này ở trên bờ vực tuyệt chủng do nạn săn bắt. Vào năm 1969, một nhà khoa học Mông Cổ đã nhìn thấy một con ngựa đực loại này ở sa mạc Gobi. Đây là lần cuối cùng con người nhìn thấy giống ngựa này trong tự nhiên. Ngựa hoang Przewalski đã bị cảnh báo tuyệt chủng từ 44 năm trước. Đến năm 2008 có khoảng 500 con ngựa thuộc loài này đang sống trong tự nhiên và 1.500 con sống trong các vườn thú và khu bảo tồn.
 
Ngày nay, ngựa Przewlski sống sót nhờ vào việc gây giống trong điều kiện nuôi nhốt. Hiện có khoảng 1.800 đến 2.000 con ngựa Przewalsi đang sinh sống tại vùng thảo nguyên Mông Cổ và các khu bảo tồn trên toàn thế giới. Hiện có tổng số 1.800 con ngựa Przewalski sống trên toàn thế giới, trong đó có rất nhiều con sống tại vườn thú Praha.<ref name="mard.gov.vn"/> Khoảng 1/4 số ngựa này được thả vào tự nhiên hồi cuối năm 2011 nhờ thành công của các biện pháp nhân giống thuần chủng. Ngựa hoang Mông Cổ tồn tại trong tự nhiên chủ yếu là Mông Cổ chỉ còn khoảng hơn 300 cá thể nhưng ngựa pregoaski đã và đang là loài ngựa được nhân giống và thuần chủng nhiều nhất thế giới.