Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Phùng Quang Hùng (nhà Thanh)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Trang mới: “'''Phùng Quang Hùng''' (chữ Hán: 冯光熊, ? – 1801), tự Thái Chiêm, người Gia Hưng, Chiết Giang, quan viên nhà Thanh. ==Khởi n…”
 
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 2:
 
==Khởi nghiệp và thăng tiến==
Năm [[Càn Long]] thứ 12 (1747), Quang Hùng đỗ cử nhân, nhờ vượt qua kỳ Khảo thụ trung thư mà được sung làm Quân cơ Chương kinh <ref>Khảo thụ (考授) là một trong những phương pháp tuyển chọn quan lại đời Thanh, tức là thông qua kỳ khảo thí để trao (thụ) quan chức. Nhà Thanh định chế: hạn ngạch còn khuyết đối với các chức vụ học quan và thư ký thì có thể thông qua Khảo thụ để bổ sung. Trung thư ([[:zh:中书|中书]]) đời Thanh mang hàm Tòng thất phẩm trở xuống, đóng vai trò thư ký, trợ tá trong các cơ quan ở trung ương (ví dụ: Biện sự trung thư, Chưởng ấn trung thư,...)</ref>. Quang Hùng dần được cất nhắc đến Hộ bộ lang trung.
 
Năm thứ 32 (1767), Quang Hùng theo Vân Quý tổng đốc [[Minh Thụy]] ([[:zh:明瑞|明瑞]]) đi [[Vân Nam]], thụ chức Diêm dịch đạo <ref>Đời Thanh, Diêm dịch đạo là quan chức giám sát ngành muối, đeo hàm Tòng tứ phẩm. Diêm dịch đạo không hề có thực quyền, vì ngành muối chịu sự quản lý theo khu vực của Diêm vận tư, mà đứng đầu Diêm vận tư là Diêm vận sứ, đeo hàm Tòng tam phẩm, ngang hàng với Án sát sứ của tỉnh, quyền thế hoàn toàn ở trên Diêm dịch đạo</ref>; gặp lúc mẹ mất nên Quang Hùng xin về, còn bị kết tội Thất sát <ref>Thất sát (失察) là sơ suất trong đốc xét. Đời Thanh định chế, thuộc cấp có tội, mà trưởng quan không kịp phát giác, thì bị phán tội Thất sát</ref> trong việc khoa phái <ref>Khoa phái (科派) là quyền bày đặt các khoản tiền phải nộp, tương tự như thuế</ref> của thuộc lại, phải chịu đoạt chức.
 
Trở lại sau khi mãn tang, Quang Hùng được khởi dùng làm Viên ngoại lang, vẫn phục vụ bộ Hộ, trực ở Quân cơ xứ, rồi được thăng làm Lang trung. Quang Hùng theo thượng thư [[Phúc Long An]] đến doanh trại của quan quân ở Kim Xuyên <ref>Năm 1771, nhà Thanh tiến hành chiến dịch bình định Kim Xuyên lần thứ 2, tổng binh Tống Nguyên Tuấn hặc Tứ Xuyên tổng đốc [[Quế Lâm (nhà Thanh)|Quế Lâm]], triều đình mệnh Binh bộ thượng thư Phúc Long An đi tra xét. Kết quả Phúc Long An bảo vệ Quế Lâm, trách tội Tống Nguyên Tuấn</ref>; sau đó Quang Hùng được thụ chức [[Giang Tây]] [[Hữu giang đạo]] ([[:zh:右江道|右江道]]), thự chức Án sát sứ kiêm Diêm dịch đạo. Tiếp đó Quang Hùng trải qua các chức vụ Giang Tây án sát sứ, [[Cam Túc]] bố chánh sứ.
 
Năm thứ 49 (1784), [[Người Hồi|dân Hồi]] ở Thạch Phong Bảo <ref>Nay thuộc [[Thông Vị]], [[Cam Túc]]</ref> nổi dậy, Quang Hùng trù hoạch chiến sự, tích trữ tiền bạc, quân nhu đầy đủ. Gặp lúc việc Giang Tây tuần phủ tiền nhiệm là [[Hác Thác]] vòi vĩnh thuộc lại bị cáo giác, đồng liêu phần nhiều chịu bắt bớ, Quang Hùng cũng bị liên lụy, chịu đoạt quan, nhưng giữ lại quân doanh để hiệu lực. Dẹp xong khởi nghĩa, nhờ [[Phúc Khang An]] tiến cử, Quang Hùng được khởi làm An Huy án sát sứ. Sau đó Quang Hùng được cất nhắc làm Hồ Nam tuần phủ, rồi điều đi [[Sơn Tây (Trung Quốc)|Sơn Tây]].
 
Khi ấy triều đình bàn luận về việc đem thuế muối quy về thuế đinh địa phương ở khu vực Hà Đông (bao gồm các tỉnh Sơn Tây, [[Thiểm Tây]], [[Hà Nam (Trung Quốc)|Hà Nam]]), Quang Hùng lên tiếng ủng hộ, nhờ đó việc này được thông qua. Năm thứ 57 (1792), Càn Long đế ghé thăm [[Ngũ Đài]], quan lại địa phương trước sau trình tấu, đều nói sau khi cải cách thuế muối, giá cả giảm đi, dân được yên lành. Đế giáng chiếu khen Quang Hùng xử lý ổn thỏa, ban Hoa linh, Hoàng mã quái, thự hàm Công bộ thị lang. Ít lâu sau, Quang Hùng được thụ chức [[Quý Châu]] tuần phủ, rồi điều đi Vân Nam.
 
==Tham gia trấn áp khởi nghĩa người Miêu==
Năm thứ 4959 (1794), Quang Hùng được thự chức Vân Nam tổng đốc. Năm sau (1795), [[người Miêu]] ở Đại Đường <ref>Nay là trấn Đại Đường, huyện [[Lôi Sơn]], Quý Châu</ref>[[Thạch Liễu Đặng]] xâm phạm Đồng Nhân <ref>Nay là [[Bích Giang]], Quý Châu</ref>, Quang Hùng đến Tùng Đào lo việc phòng ngự, cho rằng Điền Nhuyên Bình thuộc Tư Châu <ref>Điền Nhuyên Bình (田堧坪) theo ngôn ngữ địa phương có nghĩa là đất cát (sa thổ), nay là trấn Điền Bình, huyện tự trị Ngọc Bình. Tư Châu tương đương với khu vực ngày nay là huyện [[Sầm Củng]], huyện tự trị [[Ngọc Bình]] và địa cấp thị [[Đồng Nhân, Quý Châu|Đồng Nhân]], có trị sở ngày nay là huyện Sầm Củng; Tư Châu bị phế bỏ vào năm 1912</ref>, Tứ Thập Bát Khê thuộc [[Trấn Viễn]], Đại Bình thuộc [[Tư Nam]] gần gũi với người Miêu, lại còn chẹn giữ đường lui của Đồng Nhân, bèn chia binh đồn trú. Nghĩa quân đánh gấp Chánh Đại, [[Tùng Đào]], không thành công; Quang Hùng quay về Đồng Nhân lo việc tiền lương, quân nhu, còn việc bố trí phòng bị của quân đội đều giao lại cho Phúc Khang An, được khen là tính toán hợp ý bề trên, nhận mệnh ở lại làm Quý Châu tuần phủ.
 
Năm [[Gia Khánh]] thứ 2 (1797), dẹp xong khởi nghĩa, Quang Hùng kiến nghị đổi xây tường đá cho Đồng Nhân, Chánh Đại, để có thể phòng vệ, triều đình nghe theo. Gặp lúc người Trọng Miêu (tức [[người Bố Y]]) nổi dậy, Quang Hùng cùng [[Tứ Xuyên]] tổng đốc [[Lặc Bảo]] đốc soái tướng lãnh các trấn, liên hiệp quân đội các tỉnh Vân Nam, Quý Châu, [[Hồ Bắc]], [[Quảng Đông]] tiễu trừ; Quang Hùng truyền hịch đến quan tướng, giải vây cho Quy Hóa Sảnh <ref>Nay là [[Tử Vân]], Quý Châu</ref>, quét sạch 2 lộ Bá Đông, Bá Tây, thu hàng trại Miêu thuộc [[An Thuận]], Quảng Thuận.
 
==Xử lý hậu chiến==