Khác biệt giữa bản sửa đổi của “George VI của Anh”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →‎top: clean up using AWB
n replaced: uơng → ương, Quốc Xã → Quốc xã, thứ 4 của → thứ tư của, cả 2 → cả hai using AWB
Dòng 43:
== Thiếu thời ==
[[File:Edward VII UK and successors.jpg|thumb|left|upright|Bốn vị vua: Edward VII (tận cùng bên phải), vương tử George, Thân vương Wales, sau là George V (tận cùng bên trái), các vương tôn Edward, sau là Edward VIII (phía sau), và Albert, về sau là George VI (phía trước), tấm hình được chụp bởi vương hậu Alexandra, khoảng năm 1908]]
Vương tử Albert chào đời tại [[tư gia York]], trong [[Nhà Sandringham|điền trang Sandringham]] ở Norfolk, dưới triều đại của tằng tổ mẫu của ông là [[Nữ hoàng Victoria|nữ vương Victoria]].<ref>Rhodes James, tr. 90; Weir, tr. 329</ref> Cha ông là vương tử George, [[công tước xứ York]] (về sau là vua [[George V]]), con trai thứ hai và là người con lớn tuổi nhất còn sống của thân vương và thân vương phi Wales (về sau là vua [[Edward VII]] và vương hậu [[Alexandra của Đan Mạch|Alexandra]], con gái vua Đan Mạch [[Christian IX của Đan Mạch|Christian IX]]). Mẫu thân ông là công nương York (về sau là vương hậu [[Mary xứ Teck|Mary]]), con đầu lòng và cũng là người con gái duy nhất của [[Francis, Quận công xứ Teck|quận công]] và [[Công nương Mary Adelaide xứ Cambridge|công nương xứ Teck]].<ref>Weir, tr. 322–323, 329</ref>
 
Ngày sinh của ông ([[14 tháng 12]] năm [[1895]]) cũng là kỉ niệm 34 năm ngày mất của tằng tổ phụ, [[Albert, Hoàng phu|vương phu Albert]].<ref>Judd, tr. 3; Rhodes James, tr. 90; Townsend, tr. 15; Wheeler-Bennett, tr. 7–8</ref> Không rõ trong hoàn cảnh như thế nào mà nữ hoàng nghe được tin Albert chào đời, nhưng thân vương xứ Wales đã viết thư cho công tước xứ York, kể rằng nữ vương đã "rất đau khổ". Hai ngày sau, ông lại viết: ''"Cha nghĩ rằng bà ấy sẽ cảm thấy hài lòng nếu con tự đề nghị cái tên '''Albert''' với bà ấy"''.<ref>Judd, tr. 4–5; Wheeler-Bennett, tr. 7–8</ref> York nghe theo, xin nữ vương cho đặt tên cho đứa trẻ vừa chào đời là Albert. Nữ vương đẹp lòng hơn, bèn gửi thư cho công nương xứ York: ''"Bà cảm thấy khó chịu khi nhìn thấy đứa trẻ mới chào đời đó, nó sinh vào một ngày buồn nhưng lại thấy đáng quý, đặc biệt là khi nó được gọi bằng một cái tên chứa đựng sự tuyệt vời và tốt đẹp"''.<ref>Wheeler-Bennett, tr. 7–8</ref> Do đó, ba tháng sau, ông được rửa tội với tên "Albert Frederick Arthur George" tại [[Nhà thờ St. Mary Magdalene, Sandringham|Nhà thờ St. Mary Magdalene]] gần Sandringham vào ngày 17 tháng 2 năm 1896.{{efn|Những người đã đờ của ông ba gồm: [[Nữ hoàng Victoria|Nữ vương Victoria]] (tằng tổ mẫu, do tổ mẫu [[Alexandra của Đan Mạch|Công nương Wales]] đứng đại diện); [[Friedrich Wilhelm, Đại Công tước Mecklenburg|Đại Công tước]] và [[Công nương Augusta xứ Cambridge|Đại Công nương]] xứ Mecklenburg (bà dì và ông dượng, do tổ phụ [[Francis, Quận công xứ Teck|Quận công xứ Teck]] và cô ruột [[Maud xứ Wales|Công chúa Maud xứ Wales]] đại đại diện); [[Victoria, Hoàng hậu Đức|Hoàng hậu Đức quốc]] (bà dì, do [[Công chúa Victoria của Anh thống nhất|Công chúa Victoria xứ Wales]] đứng đại diện); [[Frederick VIII của Đan Mạch|Hoàng thái tử Đan Mạch]] (ông cậu, do tổ phụ [[Edward VII|Thân vươgn xứ Wales]] đứng đại diện); [[Vương tử Arthur, Quận công xứ Connaught và Strathearn|Quận công Connaught]] (ông chú); [[Louise, Công chúa hoàng gia và Công nương xứ Fife|Công nương Fife]] (dì ruột); và [[Adolphus Cambridge, Hầu tước Cambridge thứ nhất|Vương thân Adolphus xứ Teck]] (cậu ruột).<ref>''[[The Times]]'', Thứ ba 18 tháng 2 năm 1896, tr. 11</ref>}} Trong gia đình, ông thường được gọi bằng cái tên "Bertie".<ref>Judd, tr. 6; Rhodes James, tr. 90; Townsend, tr. 15; Windsor, tr. 9</ref> Bà ngoại của ông, Công nương xứ Teck, không thích cái tên Albert, và hi vọng rằng chữ cuối (George) sẽ được "thay thế cho cái chứ ít được ưa chuộng kia".<ref>Bradford, tr. 2</ref> Albert lúc chào đời đứng thứ tư trong danh sách kế vị, sau tổ phụ, phụ thân và vương huynh [[Edward VIII|Edward]].
Dòng 57:
 
[[File:Prince Albert in RAF uniform.png|thumb|upright|Albert tại 1 bữa tiệc của không quân (1919).]]
Tháng 2 năm 1918, Albert được ủy nhiệm làm Sĩ quan Quản lý Các Chàng trai (''Officer in Charge of Boys'') tại [[RAF Cranwell|Cranwell]], căn cứ huấn luyện của Bộ phận Không quân &ndash; Hải quân Hoàng gia Anh.<ref name=Bradford72>Bradford, p. 72</ref> Hai tháng sau, [[Không lực Hoàng gia Anh]] ra đời, căn cứ Cranwell được [[Bộ Hải quân (Anh)|Bộ Hải quân]] chuyển giao cho [[Bộ Không quân (Anh)|Bộ Không quân]]. Albert cũng thuyên chuyển từ Hải quân Hoàng gia sang Không lực Hoàng gia.<ref name=Bradford72/> Ông giữ chức Phi đoàn trưởng Phi đoán 4 thuộc Không đoàn Các chàng trai (''Boys' Wing'') ở Cranwell tới tháng 8 năm 1918,<ref>Bradford, pp. 73–74</ref> rồi được điều về học ở trường thiếu sinh quân Không lực Hoàng gia tại [[St Leonards-on-Sea]]. Ông hoàn tất một khóa huấn luyện dài 15 ngày, sau đó lãnh chức phi đoàn trưởng một phi đoàn của Không đoàn Thiếu sinh quân (''Cadet Wing'').<ref>Wheeler-Bennett, p. 115</ref>
 
Albert tỏ ý nguyện tham gia cuộc chiến trên [[mặt trận phía Tây (Chiến tranh thế giới thứ nhất)|mặt trận Tây Âu]], và được cho vào bộ tham mưu của tướng [[Hugh Trenchard, Tử tước Trenchard thứ nhất|Hugh Trenchard]] ở [[Pháp]]. Ngày 23 tháng 10 năm 1918, ông bay qua [[eo biển Anh]] rồi đáp xuống [[Autigny, Seine-Maritime|Autigny]].<ref>Wheeler-Bennett, p. 116</ref> Trong những tuần lễ cuối cùng của cuộc chiến, ông làm việc trong bộ tham mưu [[Lực lượng Không quân Độc lập]] (Không quân Hoàng gia Anh) tại hành dinh [[Nancy (Pháp)|Nancy]] (Pháp).<ref>{{citation |last= Boyle |first= Andrew |authorlink= Andrew Boyle |title= Trenchard Man of Vision |year= 1962 |publisher= Collins |location= St. James's Place London |page= 360|chapter= Chapter 13}}</ref> Tháng 11 năm 1918, Lực lượng Không quân Độc lập giải thể, Albert ở lại [[lục địa châu Âu]] 2 tháng làm sĩ quan tham mưu Không lực Hoàng gia, rồi mới về Anh.<ref>Judd, p. 44</ref> Ông đã tháp tùng vua Bỉ [[Albert I của Bỉ|Albert I]] ca khúc khải hoàn về [[Brussels]] ngày 22 tháng 11. Ngày 31 tháng 7 năm 1919, Albert được trao chứng chỉ phi công; sang hôm sau ông nhận chức phi đoàn trưởng.<ref>{{cite book |last= Heathcote |first= Tony |date= 2012 |title= The British Field Marshals: 1736–1997: A Biographical Dictionary |url= https://books.google.com/books?id=KAkkUN7s4TIC&pg=PT226#v=onepage&q&f=false |location= |publisher= Casemate Publisher |page= |isbn= 9781783461417}}</ref> Ông là tôn thất hoàng gia Anh nhận văn bản xác nhận trình độ chuyên môn của một phi công.<ref>Judd, p. 45; Rhodes James, p. 91</ref>
Dòng 69:
Mặc dù Lady Elizabeth là hậu duệ của vua [[Robert Bruce]] (Robert I của Scotland) và vua [[Henry VII của Anh]], tuy nhiên, theo luật của Anh, bà vẫn là một thường dân. Bà đã từ chối đề nghị của ông hai lần và do dự trong gần hai năm, vì bà không muốn hy sinh cuộc sống bình yên của mình để trở thành một thành viên hoàng gia.<ref>Bradford, p. 106</ref> Theo lời của mẹ Elizabeth Lady, Albert sẽ "gặp trở ngại" bởi sự lựa chọn của mình, và sau một thời gian dài theo đuổi, Elizabeth đã đồng ý lấy ông.<ref>Bradford, p. 77; Judd, pp. 57–59</ref>
 
Họ đã kết hôn vào ngày 26 tháng 4 năm 1923 tại [[tu viện Westminster]]. [[Công ty phát thanh Anh]] vừa mới thành lập, muốn ghi lại và phát sóng lễ cưới của Albert trên đài phát thành, nhưng ý tưởng đã bị bác bỏ (mặc dù trưởng tu viện Herbert Edward Ryle đã ủng hộ). Lady Elizabeth được phong tước hiệu Hoàng gia là Công nương xứ York sau khi họ kết hôn.<ref>{{citation |last=Reith |first=John |authorlink=John Reith, 1st Baron Reith |title=Into the Wind |publisher=Hodder and Stoughton |location=London |year=1949 |page=94}}</ref> Việc Albert kết hôn với một thường dân Anh được xem là một cử chỉ hiện đại hóa.<ref>{{citation | last=Roberts |first=Andrew |editor=Antonia Fraser |title=The House of Windsor|publisher=Cassell & Co. |location=London |year=2000 |isbn=0-304-35406-6 |pages=57–58|editorlink=Antonia Fraser}}</ref>
 
Từ tháng 12 năm 1924 tới tháng 4 năm 1925, công tước và công nương xứ York đi tuần thú [[Thuộc địa Kenya|Kenya]], [[Xứ bảo hộ Uganda|Uganda]] và [[Sudan (Ai Cập thuộc Anh)|Sudan]], du hành xuyên qua [[kênh đào Suez]] và [[Aden]]. Trong chuyến tuần du này, hai người đều dự những cuộc [[săn thú lớn]].<ref>Judd, pp. 89–93</ref>
Dòng 88:
Ngày Edward VIII thoái vị, quốc hội [[Nhà nước Tự do Ireland]] tuyên bố [[Đạo luật Hiến pháp (Tu chính án số 27) Act 1936|xóa bỏ mọi đoạn đề cập trực tiếp tới nhà vua]] khỏi [[Hiến pháp Nhà nước Tự do Ireland|hiến pháp Ireland]]. Ngày hôm sau, quốc hội Ireland thông qua [[Đạo luật Quyền Hành pháp (Quan hệ Đối ngoại) 1936|Đạo luật Quan hệ Đối ngoại]] hạn chế quyền lực của nhà vua trong việc bổ nhiệm đại diện ngoại giao tại Ireland và việc ký kết các hiệp ước đối ngoại. Đạo luật tuyên bố nhà vua chỉ được làm các việc này dưới sự tư vấn của cơ quan hành pháp (chính phủ) Ireland. Từ đây, Nhà nước Tự do Ireland thật sự là một nước cộng hòa bên trong Khối thịnh vượng chung.<ref>Townsend, p. 93</ref>
 
Nhà báo, nhân viên triều đình Dermot Morrah cho rằng, có một thời gian ngắn, người ta định suy xét cho con trai thứ 4 của George V là vương tử George, quận công Kent thay ngôi Edward VII, vượt lên cả 2hai người anh là Albert (cùng với trưởng nữ ông) và vương tử Henry, công tước Gloucester. Đề xuất này được đưa ra, có lẽ dựa trên nền tảng George là người em duy nhất của Edward VIII có con trai &ndash; đó là vương tôn Edward, công tước Kent.<ref>Howarth, p. 63; Judd, p. 135</ref>
 
==Buổi đầu trị vì==
Dòng 102:
Từ tháng 5 đến tháng 6 năm 1939, trên cương vị là vua và vương hậu Canada, George VI cùng Elizabeth [[Hoàng gia Anh thăm Canada 1939|đi tuần thú]] [[Canada]], rồi sang [[Hoa Kỳ]]. Thoạt tiên hai người đến [[Ottawa]], rồi được thủ tướng Canada [[William Lyon Mackenzie King]] dẫn đi khắp nước.<ref>{{citation| url=http://www.collectionscanada.gc.ca/king/023011-1070.06-e.html| last=Library and Archives Canada| authorlink=Library and Archives Canada| title=Biography and People > A Real Companion and Friend > Behind the Diary > Politics, Themes, and Events from King's Life > The Royal Tour of 1939| publisher=Queen's Printer for Canada| accessdate=12 December 2009| deadurl=yes| archiveurl=https://web.archive.org/web/20091030064730/http://www.collectionscanada.gc.ca/king/023011-1070.06-e.html| archivedate=30 October 2009| df=dmy-all}}</ref><ref>{{citation| last=Bousfield| first=Arthur| author2=Toffoli, Garry| title=Royal Spring: The Royal Tour of 1939 and the Queen Mother in Canada| publisher=Dundurn Press| year=1989| location=Toronto| pages=60, 66| url=https://books.google.com/?id=1Go5p_CN8UQC&printsec=frontcover&q=| isbn=1-55002-065-X}}</ref><ref>{{citation| last=Lanctot| first=Gustave| authorlink=Gustave Lanctot| title=Royal Tour of King George VI and Queen Elizabeth in Canada and the United States of America 1939| publisher=E.P. Taylor Foundation| year=1964| location=Toronto}}</ref> George VI là vị vua đang tại ngôi đầu tiên của Canada đi thăm [[Bắc Mỹ]], dù trước đây ông từng đến Canada khi còn là vương tử Albert và công tước York. Cả toàn quyền Canada [[John Buchan, Nam tước Tweedsmuir thứ nhất|huân tước Tweedsmuir]] và Mackenzie King đều hy vọng việc nhà vua hiện diện ở Canada sẽ đảm bảo Anh tôn trọng các điều lệ trong [[quy chế Westminster 1931]], đạo luật này công nhận toàn bộ chủ quyền của các quốc gia tự trị trong [[đế quốc Anh]]. Ngày 19 tháng 5, George VI đích thân tán thành và phê chuẩn quốc thư của tân đại sứ Hoa Kỳ tại Canada, [[Daniel Calhoun Roper]]; nhà vua còn phê duyệt 9 đạo luật quốc hội và sử dụng [[đại ấn Canada]] để ký kết hai hiệp ước quốc tế. Sử gia chính thức viết về chuyến tuần du, [[Gustave Lanctot]], ghi nhận ''"Quy tắc Westminster đã hoàn toàn được đưa vào hiện thực"''. George VI còn đọc bài diễn văn kêu gọi "sự cộng tác tự do và bình đẳng giữa các dân tộc trong Khối thịnh vượng chung".<ref>{{citation| last=Galbraith| first=William| title=Fiftieth Anniversary of the 1939 Royal Visit| journal=Canadian Parliamentary Review| volume=12| issue=3| pages=7–9| publisher=Commonwealth Parliamentary Association| location=Ottawa| year=1989| url=http://www.revparl.ca/english/issue.asp?art=820&param=130| accessdate=24 March 2015}}</ref>
 
Chuyến thăm Bắc Mỹ của vua George VI có mục đích là xoa dịu các khuynh hướng theo chủ nghĩa cô lập trong công chúng Bắc Mỹ giữa lúc căng thẳng leo thang ở châu Âu, và đảm bảo sự ủng hộ của Bắc Mỹ đối với Anh khi chiến tranh bùng nổ. Mặc dù chuyến đi này phần nhiều mang động cơ chính trị, nhà vua và vương hậu được công chúng tiếp đón rất nhiệt liệt.<ref>Judd, pp. 163–166; Rhodes James, pp. 154–168; Vickers, p. 187</ref> Nỗi lo George VI sẽ bị so sánh tiêu cực với Edward VIII, nay là Công tước Windsor, bị tan biến.<ref>Bradford, pp. 298–299</ref> George VI và Elizabeth còn đi dự [[Hội đấu xảo quốc tế New York 1939]] và gặp gỡ [[tổng thống Hoa Kỳ]] [[Franklin D. Roosevelt]] ở [[tòa Bạch Ốc]] và [[Di tích Lịch sử Quốc gia Nhà Franklin D. Roosevelt|tư gia]] ở [[Hyde Park, New York]].<ref>''The Times'' Monday, 12 June 1939 p. 12 col. A</ref> Nhà vua và vuơngvương hậu đã thiết lập mối quan hệ hữu hảo tốt đẹp với tổng thống, điều này sẽ tác động tích cực đến quan hệ giữa Hoa Kỳ với Liên hiệp Anh trong [[Chiến tranh thế giới thứ hai]].<ref>{{citation |last=Swift |first=Will |title=The Roosevelts and the Royals: Franklin and Eleanor, the King and Queen of England, and the Friendship that Changed History |publisher=John Wiley & Sons |year=2004}}</ref><ref>Judd, p. 189; Rhodes James, p. 344</ref>
 
== Chiến tranh thế giới thứ hai ==
Vào tháng 9 năm 1939, Anh và các Quốc gia tự trị [[Ireland trong Chiến tranh thế giới thứ hai|ngoài Ireland]] tuyên chiến với [[Đức Quốc |Đức]].<ref>Judd, pp. 171–172; Townsend, p. 104</ref> Năm 1940, [[Wehrmacht|quân đội Đức]] nhanh chóng đánh bại, chinh phục Pháp và Tây Âu. Sau đó, Đức cho không quân oanh tạc vào Anh. Vua George VI và vương hậu Elizabeth ở lại [[Luân Đôn]] dù thành phố là mục tiêu của nhiều cuộc không kích của Đức. Nơi cư ngụ chính thức của hai người trong suốt chiến tranh là [[điện Buckingham]], dù cũng có nhiều lúc họ ngủ qua đêm ở [[lâu đài Windsor]].<ref>Judd, p. 183; Rhodes James, p. 214</ref> Đêm ngày 7 tháng 9 năm 1940, không quân Đức mở đợt oanh tạc đầu tiên vào Luân Đôn, giết khoảng 1000 cư dân, đặc biệt là ở Đầu phía Đông ([[East End]]).<ref>{{citation|last=Arnold-Forster|first=Mark|authorlink=Mark Arnold-Forster|year=1983|origyear=1973|title=The World at War|location=London|publisher=Thames Methuen|isbn=0-423-00680-0|page=303}}</ref> Ngày 13 tháng 9, quốc vương và vương hậu suýt mất mãng khi 2 quả bom Đức bùng nổ trong sân điện Buckingham.<ref>{{citation |last=Churchill |first=Winston |authorlink=Winston Churchill |title=The Second World War |publisher=Cassell and Co. Ltd |year=1949 |volume=II |page=334}}</ref> Vương hậu tỏ ra không nao núng, có phát biểu nổi tiếng rằng: ''"Tôi rất vui rằng chúng ta tôi đã bị đánh bom. Nó khiến tôi có cảm giác tôi có thể nhìn tận mắt Đầu phía Đông "''.<ref>Judd, p. 184; Rhodes James, pp. 211–212; Townsend, p. 111</ref> Hoàng gia được người đương thời mô tả là luôn chia sẻ những hiểm nguy và khó nhọc với dân chúng. Họ cũng phải tuân thủ các giới hạn về khẩu phần ăn uống, sinh hoạt.<ref>{{citation|last=Goodwin|first=Doris Kearns|authorlink=Doris Kearns Goodwin|title=No Ordinary Time: Franklin and Eleanor Roosevelt: The Home Front in World War II|location=New York|publisher=Simon & Schuster|year=1994|page=380}}</ref>
[[File:King George VI with Sir Bernard Montgomery.jpg|thumb|left|George VI (trái) cùng [[Thống chế (Liên hiệp Anh)|thống chế]] [[Bernard Montgomery]] (phải) ở [[Hà Lan]] tháng 10 năm 1944.]]
 
Dòng 125:
 
== Sức khỏe và chết sớm ==
Do nghiện thuốc lá và chịu nhiều áp lực trong chiến tranh, sức mạnh nhà vua suy giảm rõ rệt vào cuối thập niên 1940 &ndash; đầu thập niên 1950.<ref>{{citation|publisher=Official website of the British monarchy|title=King George VI|url=https://www.royal.uk/george-vi-r1936-1952|accessdate=18 April 2016}}</ref><ref>Judd, p. 225; Townsend, p. 174</ref><ref>Judd, p. 240</ref> Ông mắc nhiều căn bệnh như [[ung thu phổi]], [[xơ vữa động mạch]] và [[thuyên tắc mạch máu]]. Bắt đầu từ năm 1949, ông bị tắc động mạch ở chân phải, dẫn đến nguy cơ phải cắt bỏ chân phải ông (may mắn là việc này đã không xảy ra).<ref>Rhodes James, pp. 314–317</ref> Tháng 3 năm 1949, ông được phẫu thuật cắt đoạn dây thần kinh giao cảm lưng tại điện Buckingham. Ca phẫu thuật này được giáo sư [[James Learmonth]] tiến hành với sự hỗ trợ của giáo sư Paterson Ross, và kéo dài khoảng nửa tiếng đồng hồ. Sau lần này, nhà vua đủ hồi phục để chủ trì cuộc họp Hội đồng Cơ mật ngày 29 tháng 3 năm 1949. Tuy nhiên, giáo sư Learmonth khuyên nhà vua nên giảm nhịp độ sống vì nếu thuyên tắc mạch máu tái phát sẽ rất khó chữa trị. Nhà vua lui về điền trang Sandringham và sống khép kín hơn. Trong khi đó, trưởng công chúa Elizabeth, người thừa kế ngai vàng, và phu quân [[Hoàng tế Philip, Công tước xứ Edinburgh|Philip, Công tước xứ Edinburg]] xuất hiện nhiều hơn trong các sự kiện công chúng, cũng như các chuyến công du nước ngoài (Hoa Kỳ, Canada, Đông Phi,...).<ref>Denis, trang 253</ref><ref>Brandreth, pp. 240–241; Lacey, p. 166; Pimlott, pp. 169–172</ref>
 
Ngày 3 tháng 5 năm 1951, nhà vua đứng ra khai mạc [[Đại hội Anh]] (''Festival of Britain''), một nỗ lực nhằm khẳng định sự phục hưng và trường tồn của nước Anh sau chiến tranh.<ref>Denis, trang 255</ref> Cuối tháng 5 năm này, ông lại bị bệnh nặng, một đội ngũ giỏi gồm Horace Evans, Daniel Davies, John Weir và Geoffrey Marshall đến khám cho vua, họ phát hiện một khối u tác tính ở phổi bên trái của vua. Ngày 23 tháng 9 năm 1951, phẫu thuật viên [[Clement Price Thomas]] làm phẫu thuật cắt bỏ phổi bên trái của nhà vua.<ref>Bradford, p. 454; Rhodes James, p. 330</ref> Nhà vua có hơi hồi sức, nhưng bị khản tiếng; do vậy, trong lễ khai mạc phiên họp quốc hội tháng 11 năm 1951, [[Đại Chưởng ấn|Đổng lý Văn phòng]] [[Gavin Simonds, Tử tước Simonds thứ nhất|Gavin Simonds]] thay mặt vua đọc [[diễn văn từ ngai vàng]] (''seech from the throne'').<ref>Rhodes James, p. 331</ref> Năm 1951, đài phát thanh loan [[thông điệp Giáng Sinh của hoàng gia|thông điệp Giáng sinh]] của nhà vua đi toàn quốc. Trên thực tế, bài phát biểu này được ghi âm trước theo từng phần nhỏ, rồi người ta chắp vá lại.<ref>Rhodes James, p. 334</ref>
Dòng 140:
 
Theo nhìn nhận của [[Nghị sĩ]] [[Đảng Lao động (Liên hiệp Anh)|Đảng Lao động]] [[George Hardie (chính trị gia Đảng Lao động)|George Hardie]], vụ Edward VIII thoái vị năm 1936 "có ích cho chủ nghĩa cộng hòa hơn 50 năm tuyên truyền [của những người cộng hòa]".<ref>Hardie phát biểu tại Viện Thứ dân Anh ngày 11 tháng 12 năm 1936, dẫn lại trong Rhodes James, trang 115</ref> George VI ngay sau khi nhận nhường ngôi, đã viết thư cho vua anh Edward rằng ông đã bất đắc dĩ tiếp quản một "ngai vàng" suy suyễn và phải "làm cho nó vững mạnh trở lại".<ref>Thư George VI gửi quận công Windsor, trích dẫn trong Rhodes James, trang 127</ref> Những lời này cho thấy tại thời điểm George lên ngôi, người dân đã mất niềm tin rất nhiều vào chế độ quân chủ. Trong thời gian tại vị của ông, dân Anh gánh chịu cuộc chiến tranh tàn khốc và uy quyền của hoàng gia bị thu hẹp. Tuy nhiên, bằng những hành động dũng cảm, có trách nhiệm với gia đình và đất nước, George VI đã làm quốc dân khôi phục niềm tin vào vương triều Windsor.<ref>{{Citation|last=Ashley|first=Mike|authorlink=Mike Ashley (writer)|year=1998|title=British Monarchs|publisher=Robinson|location=London|isbn=1-84119-096-9|pages=703–704}}</ref><ref>Judd, pp. 248–249</ref> Sử gia Kenneth Rose, người đã biên soạn tiểu sử của George V (cha George VI), có nhận xét về George VI:<ref>Weisbrode, trang 9</ref>
{{Cquote|''George VI không phải là nhà lãnh đạo bẩm sinh. Ông có phần nhút nhát và hay lo, cô độc và thậm chí dễ rầu rỉ. Nhưng khi đặt vào thử thách của thời chiến, ông đã biểu lộ những phẩm chất cao quý: sự kiên định, đường hoàng và thượng võ của một thời đại trước.''|||George VI}}
 
George là người đã đặt ra [[Thập tự chương George|thập tự chương]] và [[Huy chương George|huy chương]] cùng tên ông trong thời gian Chiến tranh thế giới thứ hai, để khen thưởng những công dân có hành vi đặc biệt dũng cảm.<ref>Judd, p. 186; Rhodes James, p. 216</ref> Ông đã trao tặng thập tự chương George cho toàn bộ quân dân đảo [[Malta]] vào năm 1943, để ghi nhận sự kiên cường của dân "hòn đảo pháo đài" Malta đánh bại [[Bao vây Malta (Thế chiến II)|sự bao vây]] của không quân Đức-Ý.<ref>Townsend, p. 137</ref> Ông còn được chính phủ Pháp truy tặng [[Huân chương Giải phóng]] năm 1960; cùng với Churchill, ông là người duy nhất nhận huân chương này sau năm 1946.<ref>{{Citation|url=http://www.ordredelaliberation.fr/fr_doc/liste_compagnons.pdf|publisher=Ordre de la Libération|accessdate=19 September 2009|format=PDF|title=List of Companions}}</ref>
Dòng 158:
** Tại Ấn Độ thuộc Anh, '''11 tháng 12 năm 1936 &ndash; 14 tháng 8 năm 1947''': Hoàng thượng Bệ hạ, Đức Vua, Hoàng đế Ấn Độ<ref>{{cite web|title=The Gazette of India - Extraordinary|url=http://pib.nic.in/archive/docs/DVD_01/ACC%20NO%20001-BR/RAS-1947-06-12_060.pdf|website=Press Information Bureau of India - Archive|accessdate=July 6, 2017}}</ref>
 
Trong suốt đời mình, trải qua các địa vị là chắt nữ vương Victoria, cháu nội vua Edward VII, con vua George V và em vua Edward VIII, George đã nắm giữ nhiều tước hiệu hoàng gia. Sau khi lên nối đại thống, ông thường được gọi đơn giản là ''Đức Vua'' (''The King'') hoặc ''Bệ hạ'' (''His Majesty''). Là vua Anh, George tự động kiêm nhiệm chức Tổng tư lệnh quân đội Anh.
 
{| border="0" align="center" width="80%"