2.587
lần sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi |
|||
|năm phục vụ= [[1953]]-[[1975]]
|cấp bậc= [[Hình:US-O7 insignia.svg|16px]] [[Chuẩn tướng]]
|đơn vị= [[Hình: VNNMA-Emblem.svg|20px]] [[Trường Võ bị Quốc gia Đà Lạt|Trường Võ bị Quốc gia]]<br>[[Hình: ARVN Presidential Guards Unit's Insignia.png|
|chỉ huy= [[Hình: Flag of the Vietnamese National Army.svg|
|tham chiến= [[Chiến tranh Việt Nam]]
|công việc khác= [[Tổng thống|Sĩ quan Tuỳ viên]]<ref>Sĩ quan tuỳ viên cho Tổng thống Ngô Đình Diệm</ref>
}}
===Quân đội Quốc gia Việt Nam===
Cuối tháng 3 năm 1953, thi hành lệnh động viên ông nhập ngũ vào Quân đội Quốc gia, mang số quân: 47/104.418. Theo học khóa 3 Đống Đa<ref>
===Quân đội Việt Nam Cộng hòa===
Cuối năm 1955, Thủ tướng [[Ngô Đình Diệm]] trở thành Tổng thống, đã cải đổi về mặt quân sự: Quân đội Quốc gia được đổi tên thành Quân đội Việt Nam Cộng hòa. Rồi những biến đổi về mặt chính trị, danh xưng Quốc gia Việt Nam được chuyển thành Việt Nam Cộng hòa dưới chính thể Cộng hòa Đệ nhất. Cùng năm, ông được thăng cấp [[Đại úy]] và được cử làm sĩ quan Tùy viên cho Tổng thống [[Ngô Đình Diệm]]. Giữa năm 1956, ông được thăng cấp [[Thiếu tá]] chuyển ra Cao nguyên Trung phần giữ chức vụ Chỉ huy trưởng Cơ quan Quân sự Kontum. Đầu năm 1958, ông được cử đi Hoa Kỳ du học lớp Chỉ huy Tham mưu cao cấp ''(Command and General Staff)'' tại Học viện Fort Leavenworth, Tiểu bang Kansas và khóa Hành chính Dân sự vụ ''(Civil Affairs and Military Government)'' tại Fort Gordon, Tiểu bang Kentucky.
Đầu năm 1959, sau khi từ Mỹ về nước ông được chuyển đến phục vụ tại trường Võ bị Quốc gia Đà Lạt (thời kỳ các khóa học có thời gian huấn luyện và đào tạo 4 năm). Ông được cử làm Liên đoàn trưởng Liên đoàn Sinh viên Sĩ quan các khóa: 14 Nhân Vị, 15 Lê Lợi, 16 Ấp Chiến Lược, 17 Lê Lai và 18 [[Bùi Ngươn Ngãi (Thiếu tá, Quân lực VNCH)|Bùi Ngươn Ngãi]].<ref>
Cuối năm 1961, ông được chuyển về Phủ Tổng thống giữ chức vụ Đại đội trưởng Đại đội Cận vệ kiêm Trưởng ban An ninh thay thế Thiếu tá [[Hoàng Đình Tư (Trung tá, Quân lực VNCH)|Hoàng Đình Tư]].<ref>
Đầu tháng 11 năm 1963, trong cuộc đảo chính Tổng thống Ngô Đình Diệm của Hội đồng Quân nhân Cách mạng do tướng Dương Văn Minh cầm đầu. Ông đứng về phía chống lại quân đảo chính nên bị bắt giam. Đầu tháng 2 năm 1964, sau cuộc [[Cuộc chỉnh lý tại Việt Nam Cộng hòa 1964|Chỉnh lý nội bộ ngày 30 tháng 1]] của tướng [[Nguyễn Khánh]], ông được trả tự do và được trở lại Quân đội đồng thời bị thuyên chuyển về Sư đoàn 7 Bộ binh thuộc Quân đoàn IV.
Cũng như một số tướng lãnh trên và đồng cấp. Trước và trong ngày 30 tháng 4 với phương tiện sẵn có, ông và gia đình có thể dễ dàng ra nước ngoài định cư nhưng vì tình "huynh đệ chí binh", ông ở lại với chiến hữu và chấp nhận tù đày 13 năm ròng rã (từ 1975 đến 1988).
Ông cũng không thể tuẫn tiết như các Thiếu tướng [[Nguyễn Khoa Nam]] và [[Phạm Văn Phú]], các Chuẩn tướng [[Lê Văn Hưng (tướng Việt Nam Cộng hòa)|Lê Văn Hưng]], [[Lê Nguyên Vỹ]] và [[Trần Văn Hai]] vì đức tin của người Công giáo không cho phép (ông là cựu tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế).
Tháng 2 năm 1994, ông cùng gia đình xuất cảnh theo diện H.O do Chính phủ Hoa Kỳ bảo lãnh, định cư tại Sacramento, Tiểu bang California, Hoa Kỳ.
* Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy (2011). ''Lược sử Quân lực Việt Nam Cộng hòa.
[[Thể loại: Sinh 1927]]
[[Thể loại: Chuẩn tướng Việt Nam Cộng hòa]]
[[Thể loại: Người Phú Yên]]
[[Thể loại: Người Mỹ gốc Việt]]
|