Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Phạm Ngọc Sang”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →‎top: clean up using AWB
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 11:
|năm phục vụ= [[1951]]-[[1975]]
|cấp bậc= [[Hình: US-O7 insignia.svg|16px]] [[Chuẩn tướng]]
|đơn vị= [[Hình: Fatherland - Space.png|22px20px]] [[Không lực Việt Nam Cộng hòa|Không quân]]
|chỉ huy= [[Hình: Flag of the Vietnamese National Army.svg|22px20px]] [[Quân đội Quốc gia Việt Nam|Quân đội Quốc gia]]<br>[[Hình: Flag of the South Vietnamese Army.jpg|22px20px]] [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa|Quân lực VNCH]]
|tham chiến= [[Chiến tranh Việt Nam]]
|khen thưởng= [[Hình: VPD National Order of Vietnam - Officer BAR.png|26px]] [[Bảo quốc Huân chương|B.quốc H.chương IV]]<ref>Bảo quốc Huân chương đệ tứ đẳng (ân thưởng)</ref>
Dòng 20:
 
==Tiểu sử & Binh nghiệp==
Ông sinh ngày 12 tháng 8 năm 1931, trong một gia đình thương nhân khá giả tại xã Bình Hòa,<ref>Xã Bình Hòa là nơi đặt Trung tâm Hành chính đồng thời cũng là Tỉnh lỵ của tỉnh Gia Định thời Việt Nam Cộng hòa (nay thuộc quận Bình Thạnh, Thành phố HCM).</ref> Gia Định, miền Nam Việt Nam. Năm 1950, ông tốt nghiệp Trung học chương trình Pháp với văn bằng Tú tài bán phần (Part I).
 
===Quân đội Quốc gia Việt Nam===
Dòng 26:
 
===Quân đội Việt Nam Cộng hòa===
Tháng 2 Năm 1955, mãn khóa hồi hương, ông cùng với các Trung úy [[Huỳnh Hữu Hiền (Đại tá, Quân lực VNCH)|Huỳnh Hữu Hiền]]<ref>SinhTrung uý Huỳnh Hữu Hiền sinh năm 1930, tốt nghiệp khóa 1Trường Sĩ quan Trừ bị Nam Định. Chức vụSau saucùng cùng: Đại tá Tư lệnh Không quân (1962-1963), giải ngũ năm 1963.</ref> và [[Lý Trí Tình (Đại tá, Quân lực VNCH)|Lý Trí Tình]]<ref>CấpTrung bậcuý Lý Trí Tình sau cùng: mang cấp Đại tá.</ref> (là 3 Hoa tiêu đầu tiên của Không quân Việt Nam tốt nghiệp tại Trung tâm Toulouse), tham gia vận chuyển đồng bào di cư từ miền Bắc vào Sài Gòn. Tháng 10 cùng năm ông được thăng cấp [[Đại úy]] giữ chức Chỉ huy trưởng Phi đội Liên lạc<ref>Tiền thân là Phi đoàn 312 Đặc nhiệm của Quân đội Liên hiệp Pháp, thành lập ngày 1 tháng 8 năm 1951.</ref> thay thế Đại úy Huỳnh Hữu Hiền đi du học khóa huấn luyện viên Khu trục tại Pháp. Cuối năm, ông được tuyển chọn làm Phi công riêng cho Tổng thống [[Ngô Đình Diệm]].
 
Giữa năm 1956, ông được cử đi du học khóa huấn luyện trên Vận tải cơ DC.4 tại Căn cứ Không quân Hickam Field, Honolulu, Tiểu bang Hawaii,<ref>[[Hawaii]] (Hạ Uy Di), là một quần đảo nằm ở phía bắc Thái Bình Dương. Từ năm 1898 là lãnh thổ tự trị thuộc Hoa Kỳ. Ngày 21 tháng 8 năm 1959, chính thức trở thành Tiểu bang thứ 50 của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ. Là Tiểu bang Hải ngoại thứ hai sau Tiểu bang [[Alaska]].</ref> Hoa Kỳ. Đầu năm 1957, ông được thăng cấp [[Thiếu tá]] và được chỉ định hướng dẫn Phái đoàn Không quân Việt nam Cộng hòa công du thăm viếng Hoa Kỳ.
 
Ngày Quốc khánh 26 tháng 10 năm 1959, ông được thăng cấp [[Trung tá]]. Đầu năm 1962, ông được cử đi du học khóa Tham mưu cao cấp (khóa 1962 - 1) thụ huấn 16 tuần tại trường Chỉ huy và Tham mưu Fort Leavenworth, Kansas, Hoa Kỳ<ref>Cùng được cử đi tu nghiệp khóa 1962 - 2 tại Đại học Chỉ huy Tham mưu Hoa Kỳ vói Trung tá Phạm Ngọc Sang còn có Trung tá [[Trần Thanh Phong]], Trung tá [[Nguyễn Văn Thiện (chuẩn tướng)|Nguyễn Văn Thiện]]<br>-Trung tá [[Đàm Quang Yêu (Đại tá, Quân lực VNCH)|Đàm Quang Yêu]] (TốtSinh năm 1927 tại Quảng Yên, tốt nghiệp khóa 1 Võ bị Huế, sau cùng là Đại tá Tư lệnh Biệt khu Quảng Đà (Quảng Nam và Đà Nẵng), giải ngũ năm 1966).<br>-Thiếu tá [[Phan Đình Tùng (Đại tá, Quân lực VNCH)|Phan Đình Tùng]] (TốtSinh năm 1930 tại Cần Thơ, tốt nghiệp khóa 5 Võ bị Đà Lạt, sau cùng là Đại tá Phụ tá Chỉ huy trưởng Binh chủng Pháo binh. Là Bào đệ của Thiếu tướng [[Phan Đình Niệm]]).</ref>.
 
Cuối năm 1964, ông được bổ nhiệm chức vụ Chỉ Huy Trưởng Trung tâm Huấn luyện Không quân Nha Trang thay thế Đại tá [[Lê Trung Trực]]. Đến giữa năm 1965, ông được lệnh bàn giao Trung tâm Huấn luyện lại cho Trung tá [[Nguyễn Văn Ngọc (Đại tá, Quân lực VNCH)|Nguyễn Văn Ngọc]]<ref>SinhTrung tá Nguyễn Văn Ngọc sinh năm 1931 tại Hà Nội, tốt nghiệp khóa 1 Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức. Chức vụ sauSau cùng: Đại tá Tham mưu phó tại Bộ Tư lệnh Không quân.</ref> để đi giữ chức vụ Tư lệnh Không đoàn 33 Chiến thuật tại Căn cứ Không quân Tân Sơn Nhứt.
 
Đầu năm 1966, ông chuyển sang lĩnh vực Văn phòng, giữ chức vụ Chánh Võ phòng Phủ Chủ tịch Uỷ ban Hành pháp Trung ương ''(Phủ Thủ tướng)''. Ngày Quốc khánh 1 tháng 11 năm 1969, ông được thăng cấp [[Đại tá]] và được cử theo học khóa Cao đẳng Quốc phòng tại Đà Lạt. Cùng năm chuyển về Bộ Quốc phòng làm chuyên viên nghiên cứu. Đến giữa năm 1971, được cử đi du học khóa Quản trị Quốc phòng tại trường Navy Post Graduate School ở Monterey, Tiểu bang California, Hoa Kỳ.