Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Kanak”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n clean up, replaced: hế kỷ 19 → hế kỷ XIX using AWB
clean up
Dòng 15:
| ref1 = <ref>{{cite web|title=Population Structure and Trends|url=http://www.isee.nc/population/recensement/structure-de-la-population-et-evolutions|website=Institute de la Statistique et des études économiques Nouvelle-Calédonie|publisher=Institute de la Statistique et des études économiques Nouvelle-Calédonie|accessdate=3 July 2017|language=French}}</ref>
}}
'''Kanak''' <small>(chính tả tiếng Pháp là '''Canaque''' trước 1984)</small> là các cư dân Melanesia bản địa tại [[Nouvelle-Calédonie]], một tập thể hải ngoại của Pháp tại vùng tây nam [[Thái Bình Dương]]. Theo điều tra nhân khẩu năm 2009, họ chiếm 40,3% tổng dân số [[Nouvelle-Calédonie]], với 99.078 người.<ref name="xt.isee.nc">{{citeChú thích web|url=http://xt.isee.nc/xtc/xtc.php?xt=rp09indcomap |titletiêu đề=ISEE - Population 2009 |publishernhà xuất bản=Xt.isee.nc |accessdatengày truy cập=10 July 2013}}</ref> Mặc dù người Melanesia được ghi nhận đã định cư trên bán đảo Presqu'île de Foué từ thời văn hoá Lapita (1600 TCN-500 TCN), song nguồn gốc của người Kanak chưa được biết rõ. Nghiên cứu dân tộc học chỉ ra rằng các thuỷ thủ Polynesia đã kết hôn với người Kanak trong nhiều thế kỷ.<ref name=We>{{citeChú thích web|url=http://www.newint.org/features/1981/07/01/kanaks/|titletiêu đề= We Are Kanaks|accessdatengày truy cập=30 May 2011|publishernhà xuất bản=New International Magazine|datengày tháng=July 1981}}</ref><ref name=Island>{{citeChú thích web|url=http://archives.pireport.org/archive/2005/October/10-27-com.htm|titletiêu đề= Pacific Islands Report|accessdatengày truy cập=30 May 2011|publishernhà xuất bản=Pacific Islands Development Program/East-West Center With Support From Center for Pacific Islands Studies/University of Hawai‘i}}</ref>.
 
Nouvelle-Calédonie được sáp nhập vào Pháp trong năm 1853, và trở thành một lãnh thổ hải ngoại của Pháp vào năm 1956. Một phong trào độc lập dẫn đến một cuộc khởi nghĩa bất thành vào năm 1967, và khởi nghĩa tái phát vào năm 1984, mưu cầu độc lập hoàn toàn khỏi quyền cai trị của Pháp. Các hiệp định Matignon 1988 được ký kết giữa đại biểu của Pháp và Nouvelle-Calédonie để quyết định về tổ chức trưng cầu dân ý về độc lập.
Dòng 30:
Người Melanesia định cư trên đảo chính của Nouvelle-Calédonie ít nhất là từ thời văn hoá Lapita.<ref name="Sand1998">{{cite journal|last=Sand|first=Christophe |author2=Karen Coote |author3=Jacques Bole |author4=Andre Ouetcho |date=April 1998|title=A Pottery Pit at Locality WKO013A, Lapita (New Caledonia) |journal=Archaeology in Oceania |publisher=|volume=33|issue=1|page=37|jstor=40387091}}</ref> Tuy nhiên, chưa rõ về nguồn gốc của người Kanak. Người ta phát hiện được [[đá vỏ chai]] được chuyển đến từ [[New Guinea]] cùng với đồ gốm Lapita Nouvelle-Calédonie có niên đại sớm nhất. Ngoài ra, một số nhà nghiên cứu cho rằng có bằng chứng về việc con người định cư tại Nouvelle-Calédonie có niên đại từ 3000 TCN (trước văn hóa Lapita đến 1500 năm), trong khi những người khác tuyên bố đã phát hiện được đồ gốm tiền Lapita.<ref name="West2009" /> Tại Hội nghị Lapita lần thứ 4 vào năm 2000, vấn đề được đặt ra: "Lapita Kanak, hoặc Lapita là tổ tiên cổ nhất và trước tiên của một nền văn hoá sau này được đặt tên là Kanak?"<ref name="ClarkAnderson2001">{{cite book|last1=Clark|first1=Geoffrey R.|last2=Anderson|first2=Atholl|last3=Vunidilo|first3=Tarisi|title=The archaeology of Lapita dispersal in Oceania: papers from the Fourth Lapita Conference, June 2000, Canberra, Australia|url=https://books.google.com/books?id=tfRyAAAAMAAJ|accessdate=11 June 2011|year=2001|publisher=Pandanus Books|isbn=978-1-74076-010-2|page=89}}</ref> Vẫn còn vấn đề khác trong xác định nguồn gốc và lịch sử sơ khởi của người Kanak đó là giải thích theo khảo cổ học có mâu thuẫn với quan điểm của người Kanak và quan điểm này bị chính trị hoá sau thời thực dân.<ref name="Meskell2009">{{cite book|last=Meskell|first=Lynn|title=Cosmopolitan archaeologies|url=https://books.google.com/books?id=zPBZLXxPVlwC&pg=PA61|accessdate=11 June 2011|date=January 2009|publisher=Duke University Press|isbn=978-0-8223-4444-5|pages=61–}}</ref>
 
Lịch sử sớm nhất của người châu Âu tại lãnh thổ là khi Thuyền trưởng [[James Cook]] của Anh đổ bộ lên các đảo này vào năm 1775, tại thời điểm đó có tường thuật rằng 70.000 người Kanak sống trên quần đảo. James Cook đặt tên "New Caledonia" cho các đảo theo tên gọi quê hương Scotland của ông trong tiếng La Tinh là [[Caledonia]].<ref name=We/><ref name=Island/> 5 năm sau, những người Tin Lành của Hội truyền giáo Luân Đôn đến Nouvelle-Calédonie, tiếp bước họ đến đảo là những người Công giáo Pháp vào năm 1843. Điều này dẫn đến một xung đột giữa hai phái tôn giáo và cuối cùng là người Pháp chiếm ưu thế kiểm soát các đảo. Quần đảo sau đó bị Pháp thôn tính vào năm 1853.<ref name= Kanaky>{{citeChú thích web|url=http://www.cwo.com/~lucumi/kanaky.html|titletiêu đề= The Global African Community: History Notes|work=Kanaky (New Caledonia)|accessdatengày truy cập=30 May 2011|publishernhà xuất bản= cwo.com}}</ref><ref name="Dodge1976">{{cite book|last=Dodge|first=Ernest Stanley|title=Islands and Empires: Western Impact on the Pacific and East Asia|url=https://books.google.com/books?id=RE5vls1XeEgC&pg=RA1-PA170|accessdate=10 April 2012|year=1976|publisher=U of Minnesota Press|isbn=978-0-8166-0788-4|page=1}}</ref> Trong thời thực dân thế kỷ XIX, người Kanak được tuyển mộ hoặc bị bắt làm nô lệ để làm lao động phi tự do tại những nơi như Úc, California, Canada, Chile và Fiji. Trong vòng 3.000 năm, người Kanak sống tại các đảo hẻo lánh, họ không sẵn sàng trước các virut và vi khuẩn đến từ châu Âu.<ref name="Bullard2000">{{cite book|last=Bullard|first=Alice|title=Exile to paradise: savagery and civilization in Paris and the South Pacific, 1790–1900|url=https://books.google.com/books?id=LV7jQZfYOicC&pg=PA169|accessdate=5 June 2011|year=2000|publisher=Stanford University Press|isbn=978-0-8047-3878-1|pages=169–}}</ref> Người Kanak bị đẩy khỏi đất đai của mình và được thuê làm lao động ép buộc trên các đồn điền, trại chăn nuôi và công trình công cộng của người Pháp.<ref name="LeFevre2008">{{cite book|last=LeFevre|first=Tate|title="Tourism and Indigenous Curation of Culture in Lifou, New Caledonia"· In The Future of Indigenous Museums: Perspectives from the Southwest Pacific, Nick Stanley, ed·|url=https://books.google.com/books?id=L2ocrA0MvX8C&pg=PA80|accessdate=10 July 2011|date=1 October 2008|publisher=Berghahn Books|isbn=978-1-84545-596-5|page=80}}</ref>
 
[[File:Two Kanak (Canaque) warriors holding weapons, New Caledonia.jpg|left|upright|thumb|Chiến binh Kanak, {{circa|1880}}]]
Dòng 36:
 
===Sau Thế chiến 2===
Sau [[Chiến tranh thế giới thứ hai]], phong trào độc lập Kanak lại có được động lực khi Liên Hiệp Quốc đưa Nouvelle-Calédonie vào danh sách phi thực dân hoá các lãnh thổ phi tự quản vào năm 1946. Một bước phát triển lớn diễn ra khi người Kanak và người định cư gốc Pháp tại lãnh thổ giành được quyền bỏ phiếu vào năm 1951, và Nouvelle-Calédonie trở thành một lãnh thổ hải ngoại của Pháp vào năm 1956. Người Kanak sau đó cũng được cho phép rời khỏi các khu vực dành riêng cho họ. Tiếp đến là thiết lập Hội đồng Lãnh thổ vào năm 1957, song thể chế này chỉ tồn tại ngắn ngủi; [[Charles de Gaulle]] bãi bỏ nó sau khi ông trở thành tổng thống vào năm 1958.<ref name= Kanaky/><ref name=Report>{{citeChú thích web|url=http://archives.pireport.org/archive/2005/October/10-27-com.htm|titletiêu đề= Pacific Islands Report: New Caledonia Still A Colony Despite Accord|work= Pacific Islands Development Program/East-West Center. With Support From Center for Pacific Islands Studies/University of Hawai‘i|accessdatengày truy cập=2 June 2011|publishernhà xuất bản= archives.pireport.org}}</ref>
 
Năm 1981, phong trào độc lập bắt đầu, sau vụ ám sát tổng bí thư của Liên hiệp Calédonie là Pierre Declercq vào ngày 19 tháng 9 năm 1981. Một diễn đàn dân tộc mang tên "Mặt trận Giải phóng Dân tộc Kanak và Xã hội chủ nghĩa" (FLNKS) được lập ra vào năm 1984. Diễn đàn này từ chối tham gia vào Hội đồng Lãnh thổ và thậm chí tuyên bố chính phủ cấp tỉnh của họ; điều này bị người Pháp phản đối.<ref name= Kanaky/> FLNKS "tổ chức tẩy chay các cuộc bầu cử cấp lãnh thổ tại Nouvelle-Calédonie, phá hòm phiếu và lập rào chắn ngăn người dân bỏ phiếu."<ref name="LeFevre2008"/> FLNKS kiên định sự kích động của họ và đơn phương tuyên bố vào ngày 7 tháng 1 năm 1985 rằng một cuộc trưng cầu dân ý về độc lập sẽ được tiến hành vào tháng 7 năm 1985. Sau cái chết của thủ lĩnh người Kanak là Eloi Machoro vào năm 1985, các nhà hoạt động Kanak tiến hành bắt cóc 27 hiến binh trên đảo [[Ouvéa]], khiến người Pháp hành động.<ref name="AdamAnwar2005">{{cite book|last1=Adam |first1=Asvi Warman|last2=Anwar|first2=Dewi Fortuna|last3=Indonesia|first3=Yayasan Obor|title=Violent internal conflicts in Asia Pacific: histories, political economies, and policies|url=https://books.google.com/books?id=yGDsxghgftQC&pg=PA129|accessdate=10 July 2011|year=2005|publisher=Yayasan Obor Indonesia|isbn=978-979-461-514-0|page=129}}</ref>
Dòng 58:
Chữ viết không tồn tại cho đến khi các đoàn truyền giáo xuất hiện. Kiến thức của người Kanak được truyền lại bằng lời nói dưới dạng các bài thơ, truyền thuyết và truyện kể. Trẻ em được truyền lại kiến thức từ cha mẹ và những người họ hàng khác, họ còn sử dụng cách kể buồn rầu và tượng thanh để thu hút trẻ em. Trong số các tác giả Kanak, một số người nổi tiếng là Jean-Marie Tjibaou viết ''La Présence Kanak''; Susanna Ounei-Small đến từ đảo Ouvéa; Kaloombat Tein viết ''Hwanfalik – Châm ngôn từ thung lũng Hienghene'' cung cấp cái nhìn sâu sắc về các truyền thuyết Hienghène và được viết bằng tiếng Hienghène.<ref name="SimpsonDhont1999">{{cite book|last1=Simpson|first1=Michael J.|last2=Dhont|first2=Hadrien|title=South Pacific phrasebook |url=https://books.google.com/books?id=lt3pP1oZgqQC&pg=PA85|accessdate=5 June 2011|date=1 September 1999 |publisher=Lonely Planet|isbn=978-0-86442-595-9|pages=73, 79, 88–}}</ref>
 
Tjibaou tham gia thành lập ''Écoles populaires kanak'', thể chế này dạy bằng một ngôn ngữ Kanak địa phương và giáo dục trẻ em về kiến thức tinh thần và thực tiễn, bao gồm cả việc dạy tiếng Pháp và tiếng Anh.<ref name="WaddellStudies28">{{cite book|author1=Eric Waddell|author2=University of Hawaii at Manoa. Center for Pacific Islands Studies|author3=Pacific Islands Development Program (East-West Center)|title=Jean-Marie Tjibaou, Kanak witness to the world: an intellectual biography |url=https://books.google.com/books?id=IEfhCaEbTM4C&pg=PT28|accessdate=5 June 2011|year=2009 |publisher=University of Hawaii Press|isbn=978-0-8248-3314-5|pages=28–}}</ref> Kể từ 2006, trẻ em trước tuổi đến trường được trao cơ hội học các ngôn ngữ Kanak bản địa. Trong khi các ngôn ngữ Kanak được giảng dạy trong các trường trung học khắp quần đảo Loyauté và tỉnh Bắc, thì việc giáo dục ngôn ngữ này không phổ biến tại tỉnh Nam vốn có nhiều người gốc Âu hơn.<ref name="Hofman2010">{{citeChú thích web |url=http://www.radioaustralia.net.au/pacbeat/stories/201004/s2874021.htm|titletiêu đề=Kanak languages gaining popularity again in New Caledonia|lasthọ 1=Hofman|firsttên 1=Helene |datengày tháng=15 April 2010|accessdatengày truy cập=4 June 2011}}</ref> Việc thiết lập Hovj viện Ngôn ngữ Kanak (KLA) là một điều khoản của Hiệp định Nouméa.<ref name="rnzi.com">{{citeChú thích web|url=http://www.rnzi.com/pages/news.php?op=read&id=30527|titletiêu đề=New Caledonian indigenous Kanak language academy set up|datengày tháng=4 March 2007|publishernhà xuất bản=Radio New Zealand International |accessdatengày truy cập=4 June 2011|locationvị trí=Wellington, New Zealand}}</ref>
 
==Tín ngưỡng==
Người Kanak có tục lệ cúng bái tổ tiên, được thể hiện bằng mộ cổ, các phiến đá thiêng và các nền lò cầu nguyện nơi họ tiến hành cúng tế.<ref>Bullard, p. 55</ref> Ngày nay, hầu hết người Kanak là tín đồ Cơ Đốc giáo. Tôn giáo là một yếu tố quan trọng trong sinh hoạt của người Kanak. Người Kanak tham gia Giáo hội Công giáo tại Nouméa, và họ chiếm gần 50% số tín đồ Công giáo tại lãnh thổ, chỉ sau người gốc Âu. Ngoài ra, đa số tín đồ Tin Lành trong lãnh thổ là người Kanaks.<ref name="LoganCole2001, pp.45–46"/> Tuy nhiên, vẫn còn số ít người theo các đức tin truyền thống.
 
Theo các đức tin truyền thống của người Kanak, biển là thứ thiêng liêng vì nó cung cấp cho họ cá để làm thức ăn,<ref name=Fol>{{citeChú thích web|url=http://www.conservation.org/FMG/Articles/Pages/kanak_traditions_future_conservation.aspx|titletiêu đề=Kanak Traditions Guide Future Conservation|accessdatengày truy cập=3 June 2011|publishernhà xuất bản=Conservation.org}}</ref> do đó họ đối đãi với biển với lòng sùng kính nhất. Các truyện kể dân gian của người Kanak không chỉ chứng thực thực tế này mà còn được tuân theo nghiêm khắc với tư cách là luật bất thành văn. Một số khía cạnh quan trọng của luật truyền khẩu liên quan đến bảo vệ và bảo tồn môi trường, như kết thúc hoạt động đánh bắt khi lượng cá suy giảm, và quyền đánh cá tại các khu vực nhất định được người địa phương tuân thủ nghiêm ngặt với sự tôn trọng.<ref name=Fol/>
 
==Văn hoá==
Dòng 69:
Bougna là một món ăn truyền thống của người Kanak, được nhiều người cho là món ăn dân tộc.<ref name="West2009">{{cite book|last=West|first=Barbara A.|title=Encyclopedia of the Peoples of Asia and Oceania|url=https://books.google.com/books?id=pCiNqFj3MQsC&pg=PA360|accessdate=8 June 2011|year=2009|publisher=Infobase Publishing|isbn=978-0-8160-7109-8|pages=360–}}</ref> Nó được làm từ rau củ thái lát như [[khoai môn]], [[sắn]], [[khoai lang]] và sữa dừa.<ref name="Haden2009"/> Thịt lợn, thịt gà hoặc hải sản có thể được sử dụng, sau đó nguyên liệu được bọc trong lá chuối và được nấu bằng đá nóng trong lò ngầm dưới đất.<ref name="Stanley2004">{{cite book|last=Stanley|first=David|title=Moon Handbooks South Pacific|url=https://books.google.com/books?id=EDGapfBX-CAC&pg=PA824|accessdate=5 June 2011|date=15 November 2004|publisher=David Stanley|isbn=978-1-56691-411-6|pages=824–}}</ref> Các nguyên liệu địa phương khác được sử dụng trong ẩm thực Kanak gồm ''[[Rousettus]]'' (dơi) và hươu địa phương; hải sản như cá tại phá và rặng san hô (gồm [[Naso unicornis|dawa]]), cùng với tôm cua. Đậu pata là [[Phaseolus vulgaris|đậu cô ve]] trồng tại địa phương, còn [[na]], [[chanh]] và [[saffron|bột nghệ tây]] là các nguyên liệu địa phương khác.<ref name="Haden2009">{{cite book|last=Haden|first=Roger|title=Food Culture in the Pacific Islands|url=https://books.google.com/books?id=6eZe7e-1Y3sC&pg=PA138|accessdate=5 June 2011|date=30 August 2009|publisher=ABC-CLIO|isbn=978-0-313-34492-3|pages=138–}}</ref>
 
Nghệ thuật Kanak trở nên phổ biến hơn kể từ thập niên 1990 với các nỗ lực của Cơ quan Phát triển Văn hoá Kanak ADCK.<ref name="LoganCole2001, pp.48–55">"LoganCole2001, pp.48–55"</ref> Các đồ gốm Lapita có niên đại từ 1500 TCN, về cơ bản đây là nghề thủ công của nữ giới và nó thường được trang trí bằng các kiểu mẫu hình học và mặt người cách điệu, song có khác biệt giữa đồ gốm miền bắc và miền nam. Nhiều cán và nước men có thiết kế rãnh được làm từ lược răng. Đồ gốm được làm từ đất sét trên các đảo.<ref>"LoganCole2001, pp.50-51"</ref> Hội hoạhọa là một dạng mỹ thuật gần đây và phổ biến trong các nữ nghệ sĩ. Các nghệ sĩ nổi tiếng như Yvette Bouquet từ Koumac tạo ra các bức tranh về đề tài Thái Bình Dương và châu Đại Dương, Paula Boi có các bức tranh với phong cảnh trừu tượng hơn, còn Denise Tuvouane và Maryline Thydjepache sử dụng các dạng nghệ thuật hỗn hợp. Các nhà chờ xe buýt là nơi phổ biến để minh hoạ các bức tranh của họ.<ref>"LoganCole2001, p.51"</ref>
 
{{double image|left|Kanak doorpost Inv.MH31-50-2.jpg|137|Kanak house-2.jpg|131|Trái: Trụ cửa Kanak (chi tiết) cho một ngôi nhà tế lễ lớn, điêu khắc Kanak. Phải: Nhà lớn Kanak với ''flèche faîtière'' tại Trung tâm văn hoá Jean-Marie Tjibaou, [[Nouméa]].}}