Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Callisto (vệ tinh)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
clean up
Dòng 54:
Galileo phát hiện ra Callisto cùng với 3 vệ tinh Ganymede, Io và Europa gần như đồng thời trong tháng 1 năm 1610<ref name=Galilei/>.
 
[[Simon Marius]] là người đầu tiên đề nghị đặt tên cho các vệ tinh lớn nói trên, trong đó có Callisto<ref name=Marius>{{chú thích sách|author=[[Marius, S.]]|title=[[Mundus Iovialis]] anno M.DC.IX Detectus Ope Perspicilli Belgici|url=http://galileo.rice.edu/sci/marius.html|year=1614}}</ref>. Ông đã gửi những đề nghị của mình cho [[Johannes Kepler]]<ref name=Galileo>{{chúChú thích web|titletiêu đề=Satellites of Jupiter|publishernhà xuất bản=The Galileo Project| url=http://galileo.rice.edu/sci/observations/jupiter_satellites.html|accessdatengày truy cập = ngày 31 tháng 7 năm 2007}}</ref>. Thế nhưng trong nhiều thế kỉ, người ta không thích gọi tên những vệ tinh như vậy, chỉ đơn giản là Jupiter IV theo cách gọi lúc ban đầu của Galileo (có nghĩa là vệ tinh thứ tư của Sao Mộc)<ref name=Barnard1892>{{chú thích tạp chí|last=Barnard|first=E. E.|url= http://adsabs.harvard.edu//full/seri/AJ.../0012//0000081.000.html|title=Discovery and Observation of a Fifth Satellite to Jupiter|journal=Astronomical Journal|volume=12|year=1892|pages=81–85|doi=10.1086/101715}}</ref>. Mãi đến giữa thế kỉ 20, cách gọi tên theo các vị thần như đề nghị ban đầu của Simon Marius mới trở nên phổ biến.
 
[[Callisto (thần thoại)|Callisto]] là một nhân vật trong [[thần thoại Hy Lạp]], một trong nhiều người tình của [[Zeus]] (Sao Mộc được đặt tên là [[Jupiter]], chính là Zeus theo [[thần thoại Hi Lạp|thần thoại Hy Lạp]]). Là con gái của [[Lycaon (thần thoại)|Lycaon]], vua xứ [[Arcadia]], Callisto là một nữ thần theo hầu nữ thần săn bắn [[Artemis]]. Giống như những nữ thần khác phụ tá cho Artemis, Callisto thề giữ trọn trinh tiết. Thế nhưng Zeus đã hóa thân thành Artemis để lừa Callisto và sau đó, quan hệ với nàng (đây là một ví dụ về quan hệ đồng giới trong thần thoại Hy Lạp). Callisto do không giữ được lời thề, đã bị biến thành một con gấu. Con của Callisto và Zeus chính là Arcas, sau này do không biết gấu chính là mẹ mình, đã bắn Callisto. Zeus sau đó đã biến cả hai mẹ con thành hai chòm sao [[Đại Hùng]] và [[Tiểu Hùng]].
Dòng 62:
<!-- [[Hình:001221 Cassini Jupiter & Europa & Callisto.jpg|trái|nhỏ|Callisto (bên trái phía dưới), Jupiter (bên phải phía trên) và Europa (bên trái và phía dưới [[Vết Đỏ Lớn]]). Khoảng cách không chính xác (Courtesy: NASA/JPL)]] -->
 
Callisto là vệ tinh nằm ở ngoài cùng trong số 4 vệ tinh lớn (gọi là vệ tinh Galileo) của Sao Mộc. Bán kính quỹ đạo trung bình là khoảng 1.880.000&nbsp;km, gấp 26,3 lần bán kính Sao Mộc<ref name=orbit>{{chúChú thích web|titletiêu đề=Planetary Satellite Mean Orbital Parameters|publishernhà xuất bản=Jet Propulsion laboratary, California Institute of Technology|url=http://ssd.jpl.nasa.gov/?sat_elem}}</ref>. Quỹ đạo của Callisto xa hơn khá nhiều so với quỹ đạo của vệ tinh lớn nằm tiếp theo là [[Ganymede (vệ tinh)|Ganymede]] ở khoảng cách 1.070.000&nbsp;km. Do quỹ đạo xa như vậy nên Callisto không bị cộng hưởng quỹ đạo như 3 vệ tinh còn lại, và có thể sẽ không bao giờ bị cộng hưởng quỹ đạo với 3 vệ tinh kia<ref name=Musotto2002>{{chú thích tạp chí|last=Musotto|first=Susanna|coauthors=Varadi, Ferenc; Moore, William; Schubert, Gerald|title=Numerical Simulations of the Orbits of the Galilean Satellites|year=2002|volume=159|pages=500–504|doi=10.1006/icar.2002.6939| url=http://adsabs.harvard.edu/abs/2002Icar..159..500M | journal = Icarus}}</ref>.
 
Giống như các vệ tinh thông thường khác, Callisto bị khóa lại bởi lực hấp dẫn của Sao Mộc khiến cho nó luôn chỉ quay một mặt về phía Sao Mộc<ref name="Anderson 2001"/>. Chu kì tự quay của nó, vì thế cũng chính bằng chu kì quay quanh Sao Mộc là 16,7 ngày [[Trái Đất]]. Quỹ đạo của Callisto là rất tròn và gần như ngang bằng với mặt phẳng xích đạo của Sao Mộc. Độ dẹt quỹ đạo cũng như độ nghiêng này có sự thay đổi gần như là chu kì bởi tác động của nhiều lực hấp dẫn, chủ yếu là của [[Mặt Trời]] và [[Sao Mộc]]. Những chu kì này dài khoảng vài trăm năm. Mức độ thay đổi cũng khá nhỏ, đối với độ dẹt là khoảng 0,0072–0,0076<ref name=Musotto2002/> và đối với góc nghiêng là khoảng 0,20–0,60°. Chính những thay đổi này kéo theo sự thay đổi góc nghiêng giữa trục quay của Callisto và pháp tuyến mặt phẳng quỹ đạo trong khoảng từ 0,4 đến 1,6°<ref name=Bills2005>{{chú thích tạp chí|last=Bills|first=Bruce G.|title=Free and forced obliquities of the Galilean satellites of Jupiter|year=2005|volume=175|pages=233–247|doi=10.1016/j.icarus.2004.10.028| url=http://adsabs.harvard.edu/abs/2005Icar..175..233B | journal = Icarus}}</ref>.
Dòng 75:
Khối lượng riêng của Callisto, được xác định bằng 1,83 g/cm<sup>3</sup>, chỉ ra rằng Callisto cấu tạo từ một nửa là đá và một nửa là [[băng|băng nước]], có thể có thêm một số loại băng dễ bay hơi như [[amoniac]]<ref name="Anderson 2001"/><ref name=Kuskov2005>{{chú thích tạp chí|last=Kuskov|first=O.L.|coauthors=Kronrod, V.A.|title=Internal structure of Europa and Callisto|year=2005|volume=177|pages=550–369|doi=10.1016/j.icarus.2005.04.014| url=http://adsabs.harvard.edu/abs/2005Icar..177..550K | journal = Icarus}}</ref>. Tỉ lệ của băng trong khối lượng của Callisto là khoảng 49–55%<ref name=Kuskov2005/><ref name="Spohn 2003"/>. Cấu tạo phần đá của Callisto vẫn chưa được xác định, nhưng rất có thể giống như cấu tạo của [[O-chondrite]] dạng L/LL với ít kim loại, ít sắt và nhiều các [[ôxít]] kim loại hơn so với [[H-chondrite]] (chondrite là những mẫu thiên thạch tìm thấy trên [[Trái Đất]] được phân loại theo thành phần, cấu tạo). Tỉ lệ sắt: silic của Callisto là khoảng 0,9:1,3 trong khi đối với Mặt Trời là khoảng 1,8<ref name=Kuskov2005/>.
 
Bề mặt của Callisto có độ phản xạ vào khoảng 20%<ref name=Moore2004/>. Cấu tạo bề mặt của nó cũng tương tự như toàn bộ cấu tạo của vệ tinh. Quang phổ cận hồng ngoại của Callisto cho thấy có những vạch hấp thụ của băng nước ở các bước sóng 1,04, 1,25, 1,5, 2,0 và 3,0&nbsp;µm<ref name=Moore2004/>. Băng nước rất phổ biến trên bề mặt vệ tinh, tỉ lệ có thể là từ 25–50%<ref name=Showman1999>{{chú thích tạp chí|last=Showman |first=Adam P.|coauthors=Malhotra, Renu|title=The Galilean Satellites|year=1999|journal=[[Science]]|volume=286|pages=77–84|doi=10.1126/science.286.5437.77| url=http://www.lpl.arizona.edu/~showman/publications/showman-malhotra-1999.pdf|format=pdf|pmid=10506564}}</ref>. Phân tích những dữ liệu quang phổ có độ phân giải cao trong vùng bước sóng cận [[tia hồng ngoại|hồng ngoại]] và [[tử ngoại]] của Callisto thu được từ tàu Galileo và các trạm quan sát mặt đất cho thấy: trên bề mặt Callisto còn có nhiều vật chất không ở dạng băng như: các khoáng [[khoáng vật silicat|silicat]] [[sắt]] hay [[magiê]] ngậm nước, [[Cacbon điôxít|CO<sub>2</sub>]]<ref name=Brown2003/>, [[Lưu huỳnh điôxit|SO<sub>2</sub>]]<ref name=Noll1996>{{chúChú thích web|lasthọ 1=Noll|firsttên 1=K.S.|titletiêu đề=Detection of SO<sub>2</sub> on Callisto with the Hubble Space Telescope|yearnăm=1996|publishernhà xuất bản=Lunar and Planetary Science XXXI| url=http://www.lpi.usra.edu/meetings/lpsc97/pdf/1852.PDF|pagescác trang=1852|formatđịnh dạng=pdf}}</ref>, [[amoniac]] và các [[hợp chất hữu cơ]]<ref name=Moore2004/><ref name=Showman1999/>. Nhìn chung, bề mặt của Callisto rất không đồng nhất với những vệt sáng màu của băng nước nằm lẫn với những vệt hỗn hợp băng đá cho tới những vệt tối màu của các vật chất không ở dạng băng<ref name=Moore2004/><ref name="Greeley 2000"/>.
 
Bề mặt của Callisto được chia thành hai nửa không đối xứng. Nửa [[bán cầu]] hướng theo chiều quay của vệ tinh (là nửa bán cầu ta nhìn thấy khi quan sát vệ tinh đi về phía chúng ta) có màu tối hơn so với nửa còn lại. Điều này trái ngược với các vệ tinh Galileo khác<ref name=Moore2004/>. Nửa tối hơn có nhiều [[Lưu huỳnh điôxit|SO<sub>2</sub>]]<ref name=Hibbitts1998>{{chúChú thích web|lasthọ 1=Hibbitts |firsttên 1=C.A.|coauthorscác tác giả=McCord, T. B.; Hansen, G.B.|titletiêu đề=Distributions of CO<sub>2</sub> and SO<sub>2</sub> on the Surface of Callisto|yearnăm=1998|publishernhà xuất bản=Lunar and Planetary Science XXXI|url=http://www.lpi.usra.edu/meetings/lpsc2000/pdf/1908.pdf|pagescác trang=1908|formatđịnh dạng=pdf}}</ref>, trong khi nửa sáng hơn, có nhiều [[Cacbon điôxít|CO<sub>2</sub>]]<ref name=Hibbitts1998/>. Xét một cách tổng quát, cấu tạo bề mặt của Callisto, khá giống với các [[tiểu hành tinh]] nhóm D với nhiều vật chất chứa [[cacbon|carbon]].
 
=== Cấu tạo ===
Dòng 96:
Những hố thiên thạch của Callisto có đủ mọi kích thước, từ cỡ nhỏ khoảng 0,1&nbsp;km (là giới hạn phân giải của ảnh chụp vệ tinh) cho tới trên 100&nbsp;km (không tính những miệng hố thiên thạch đa vành)<ref name="Greeley 2000"/>. Những hố bé, cỡ dưới 5&nbsp;km thường có đáy phẳng hoặc lõm xuống như hình cái bát. Những hố lớn hơn từ 5 đến 40&nbsp;km ở tâm thường có một đỉnh núi nhỏ. Những hố lớn hơn nữa, trên 60&nbsp;km thì thay vì một đỉnh núi ở giữa là một vùng nhô lên hình vòm<ref name="Greeley 2000"/>. Đó được coi là kết quả của việc những tầng đất đá bên dưới trồi lên sau vụ va chạm. Vài hố thiên thạch lớn hơn nữa, trên 100&nbsp;km và những hố thiên thạch sáng màu có cấu trúc vòm rất đặc biệt. Chúng đặc biệt nông và có thể là dạng chuyển tiếp giữa các hố thiên thạch nhỏ thông thường và những hố thiên thạch lớn đa vành, một ví dụ là miệng hố [[Lofn]]<ref name="Greeley 2000"/>. Nhìn chung hố thiên thạch trên Callisto không sâu như những hố thiên thạch của [[Mặt Trăng]].
 
Những cấu trúc bề mặt lớn nhất trên Callisto chính là những hố thiên thạch đa vành làm thành vùng lòng chảo rộng lớn<ref name="Greeley 2000"/><ref name="Bender 1997"/>. Có 2 cấu trúc như vậy đặc biệt lớn, lớn nhất là miệng hố [[Valhalla]] với vùng trung tâm sáng màu với đường kính 600&nbsp;km và có những vành cách tâm tới 1.800&nbsp;km<ref name="Map 2002">{{cite map|title=Controlled Photomosaic Map of Callisto JC 15M CMN |publisher=U.S. Geological Survey |edition=2002 |url=http://geopubs.wr.usgs.gov/i-map/i2770/}}</ref>. Miệng hố lớn thứ 2 là [[Asgard (thần thoại)|Asgard]] có đường kính 1.600&nbsp;km<ref name="Map 2002"/>. Những cấu trúc như vậy là kết quả của những vụ va chạm lớn. Sau vụ va chạm, lớp quyển đá của Callisto bị trượt đi và rung động mạnh phía trên của lớp vật chất mềm hơn hay thậm chí là một lớp chất lỏng<ref name=Klemaszewski2001>{{chúChú thích web|lasthọ 1= Klemaszewski|firsttên 1= J.A.|coauthorscác tác giả= Greeley, R.|titletiêu đề= Geological Evidence for an Ocean on Callisto |yearnăm=2001|publishernhà xuất bản=Lunar and Planetary Science XXXI||pagescác trang=1818|url=http://www.lpi.usra.edu/meetings/lpsc2001/pdf/1818.pdf|formatđịnh dạng=pdf}}</ref>,phiên âm là/ˌkælɨˈstoʊən/, hoặc là Callistan<ref name=Moore1999/>. Những rung động này có tính hướng tâm (hướng về tâm va chạm) đã tạo nên những dấu vết địa hình rõ rệt có dạng vành đồng tâm. Một kiểu cấu trúc khác rất đáng chú ý là những chuỗi hố thiên thạch nắm trên đường thẳng, ví dụ như dãy [[Gomul]]. Chúng có thể là kết quả của một thiên thể hay sao chổi nào đó khi bay ngang qua Sao Mộc đã bị lực hấp dẫn của nó xé ra thành nhiều mảnh, trước khi đâm vào Callisto. Một khả năng khác là một sao chổi đã đâm vào Callisto với góc rất nhỏ và tạo nên một vệt dài trên bề mặt nó<ref name="Greeley 2000"/>. Một vụ va chạm [[sao chổi]] là ví dụ cho khả năng thứ nhất là [[sao chổi Shoemaker-Levy 9]].
[[Tập tin:Landslides and knobs PIA01095.jpg|nhỏ|170px|Những vết sạt lở và những vùng gò trên Callisto]]
Như đã nói ở trên, những vệt băng nước tinh khiết với độ phản xạ lên tới 80% trên Callisto được bao quanh bởi những loại vật chất rất tối màu<ref name=Moore2004/>. Những bức ảnh với độ phân giải cao của tàu thám hiểm Galileo cho thấy những vệt băng này chủ yếu nằm trên vùng tương đối cao như vành các hố thiên thạch, các rặng núi và các gò đá<ref name=Moore2004/>. Những vùng thấp hơn ở xung quanh có màu tối và khá mịn. Chúng có thể kéo dài tới 5&nbsp;km kể từ chân miệng hố thiên thạch và là kết quả của việc đất đá xung quanh miệng hố bị nén lún xuống<ref name=Moore2004/>.
Dòng 102:
Trong số 4 vệ tinh lớn của Sao Mộc, bề mặt Callisto là bề mặt bị xâm thực nhiều nhất<ref name=Moore2004/>. Nếu so sánh với vùng đồng bằng tối màu trên [[Ganymede]], Callisto có vẻ ít những hố thiên thạch đường kính dưới 1&nbsp;km hơn<ref name="Greeley 2000"/>. Thay vì những hố thiên thạch nhỏ như vậy, bề mặt Callisto có rất nhiều gò và những rãnh nứt<ref name=Moore2004/>. Những gò đất là phần còn sót lại của những hố thiên thạch cổ xưa đã bị xâm thực bởi một nguyên nhân nào đó<ref name=Moore1999>{{chú thích tạp chí|last=Moore|first=Jeffrey M.|coauthors=Asphaug, Erik; Morrison, David; et.al.|title=Mass Movement and Landform Degradation on the Icy Galilean Satellites: Results of the Galileo Nominal Mission|year=1999|volume=140 |pages=294–312|doi=10.1006/icar.1999.6132|url=http://adsabs.harvard.edu/abs/1999Icar..140..294M | journal = Icarus}}</ref>. Khả năng lớn nhất có thể là do sự thăng hoa rất chậm chạp của những chất có thể bay hơi như băng đá dưới nhiệt độ có thể ở mức 165K khi hướng về phía Mặt Trời<ref name=Moore2004/>. Sự bay hơi của những vật chất cấu tạo nên lớp đá nền đã khiến cho hố thiên thạch bị hủy hoại dần<ref name=Moore1999/>. Những phần sót lại không có cấu tạo băng bị vụn ra và sạt xuống từ thành hố thiên thạch (hiện nay vẫn quan sát được hiện tượng này <ref name=Moore2004/><ref name="Greeley 2000"/><ref name=Moore1999/>). Thỉnh thoảng thành của các hố thiên thạch bị những cấu trúc giống như thung lũng cắt vào, tạo thành các rãnh giống như những cấu trúc trên [[Sao Hỏa]]<ref name=Moore2004/>. Theo giả thuyết nói trên, người ta cho rằng những vùng tối nằm dưới thấp được phủ bởi những vật chất không có cấu tạo băng bị rã ra từ thành hố thiên thạch.
 
Tuổi của những cấu trúc trên bề mặt Callisto được xác định thông qua mật độ những vụ va chạm thiên thạch đã làm nên chúng. Bề mặt của một thiên thể được hình thành càng sớm thì mật độ hố thiên thạch càng dày đặc<ref name=Chapman1997>{{chúChú thích web|lasthọ 1=Chapman|firsttên 1= C.R.|coauthorscác tác giả= Merline, W.J.; Bierhaus, B.; et.al.|titletiêu đề= Populations of Small Craters on Europa, Ganymede, and Callisto: Initial Galileo Imaging Results |yearnăm=1997|publishernhà xuất bản=Lunar and Planetary Science XXXI|pagescác trang=217|url=http://www.lpi.usra.edu/meetings/lpsc97/pdf/1221.pdf|formatđịnh dạng=pdf|pagescác trang=1221}}</ref>. Vùng dày đặc hố thiên thạch của Callisto có thể đã hình thành cách đây 4,5 tỉ năm, ngay từ những thời điểm ban đầu hình thành [[hệ Mặt Trời]]. Những cấu trúc đa vành và các hố thiên thạch khác được ước đoán từ 1 tới 4 tỉ năm<ref name="Greeley 2000"/><ref name="Zahnle 1998"/>.
 
=== Khí quyển và tầng điện ly ===
Dòng 127:
== Khả năng tồn tại sự sống ==
 
Giống như [[Europa (vệ tinh)|Europa]] và [[Ganymede (vệ tinh)|Ganymede]], Callisto được cho là có khả năng tồn tại sự sống ngoài Trái Đất. Có thể có những dạng sống [[vi sinh vật]] tồn tại trong đại dương bên dưới bề mặt của Callisto<ref name=Lipps2004>{{chú thích tạp chí|last=Lipps|first=Jere H.|coauthors=Delory, Gregory; Pitman, Joe; et.al.|title=Astrobiology of Jupiter’s Icy Moons|journal=Proc. SPIE|year=2004|volume=5555|pages=10|doi=10.1117/12.560356| url=http://web.archive.org/web/20070926195309/http://learning.berkeley.edu/astrobiology/2004ppt/jupiter.pdf|format=pdf}}</ref>. Mặc dù vậy, khả năng tồn tại sự sống trên Callisto không nhiều như Europa. Nguyên nhân căn bản là do lớp đại dương này có thể không có những vật liệu rắn cần thiết cho sự sống cũng như thiếu đi nguồn trao đổi nhiệt từ vùng lõi của Callisto. Nhà nghiên cứu Torrence Johnson, so sánh khả năng tồn tại sự sống trên Callisto và các vệ tinh khác của Sao Mộc như sau <ref name=Phillips>{{chúChú thích web|lasthọ 1=Phillips|firsttên 1=T.| url=http://science.nasa.gov/science-news/science-at-nasa/1998/ast22oct98_2/|titletiêu đề=Callisto makes a big splash|publishernhà xuất bản=Science@NASA|datengày tháng = ngày 23 tháng 10 năm 1998}}</ref>:
 
{{Trích dẫn|Những vật liệu cơ bản cấu thành nên sự sống - những chất hóa học tiền sinh - khá phổ biến trên các thiên thể của hệ Mặt Trời: các sao chổi, thiên thạch và các vệ tinh băng đá. Các nhà sinh học cho rằng chất lỏng và năng lượng là những yếu tố cơ bản để hỗ trợ cho sự sống. Vì thế thật thú vị khi tìm thấy ở một thiên thể khác sự tồn tại của nước. Nhưng, năng lượng cũng là một yếu tố không kém phần quan trọng. Trong khi đại dương của Callisto chỉ được cung cấp nhiệt năng từ những chất phóng xạ phân rã trong lõi của nó, thì Europa còn được cung cấp nhiệt năng từ sự ma sát các lớp đất đá gây ra bởi lực hút của Sao Mộc.}}
Dòng 139:
Các tàu thám hiểm Sao Mộc [[Pioneer 10]] và [[Pioneer 11]] của những năm 70 thế kỉ trước chỉ cung cấp rất ít thông tin về Callisto so với những điều đã biết về vệ tinh này trước đó từ những đài quan sát mặt đất<ref name=Moore2004>{{cite encyclopedia|last=Moore|first=Jeffrey M.|coauthors=Chapman, Clark R.; Bierhaus, Edward B. et.al. |title=Callisto|encyclopedia=Jupiter: The planet, Satellites and Magnetosphere|year=2004|publisher=Cambridge University Press|editor=Bagenal, F.; Dowling, T.E.; McKinnon, W.B.| url=http://lasp.colorado.edu/~espoclass/homework/5830_2008_homework/Ch17.pdf|format=pdf}}</ref>. Những phát hiện quan trọng chỉ diễn ra khi 2 tàu thám hiểm Voyager 1 và 2 bay qua Callisto vào năm 1979 và 1980. Chúng đã chụp được ảnh một nửa bề mặt Callisto với độ phân giải khá tốt, từ 1 đến 2&nbsp;km và xác định chính xác nhiệt độ bề mặt, khối lượng và hình dáng của nó<ref name=Moore2004/>. Sau đó, từ 1994 đến 2003, tàu Galileo đã 8 lần bay ngang qua Callisto, lần cuối cùng vào năm 2001 đã vào rất gần vệ tinh này, chỉ cách bề mặt của nó 138&nbsp;km. Nó đã chụp được ảnh toàn bộ bề mặt Callisto và đối với những vùng nhất định, chụp được ảnh với độ phân giải lên tới 15 m<ref name="Greeley 2000"/>. Vào năm 2000, [[tàu thám hiểm Cassini]] trên hành trình đến [[Sao Thổ]] cũng đã khảo sát quang phổ hồng ngoại các vệ tinh lớn của Sao Mộc với độ phân giải cao<ref name=Brown2003>{{chú thích tạp chí |last=Brown |first=R. H.|coauthors=Baines, K. H.; Bellucci, G.; ''et al.''|title=Observations with the Visual and Infrared Mapping Spectrometer (VIMS) during Cassini’s Flyby of Jupiter |year=2003 |journal=Icarus |volume=164 |pages=461–470 |doi=10.1016/S0019-1035(03)00134-9 |url=http://adsabs.harvard.edu/abs/2003Icar..164..461B}}</ref>. Tháng 2 - 3 năm 2007, đến lượt tàu [[New Horizons]] trên hành trình tới [[Sao Diêm Vương]] cũng đã chụp những bức ảnh mới về bề mặt và quang phổ của Callisto<ref name=Morring2007>{{chú thích tạp chí|last=Morring |first=F.|title=Ring Leader |journal=Aviation Week&Space Technology|date = ngày 7 tháng 5 năm 2007 |pages=80–83}}</ref>.
 
Trong tương lai, một dự án mang tên Europa Jupiter System Mission (EJSM) (dự án nghiên cứu Sao Mộc và các vệ tinh, chủ yếu là Europa) liên kết giữa 2 trung tâm khoa học vũ trụ [[NASA]] và [[Cơ quan vũ trụ châu Âu|ESA]] có thể được thực hiện vào năm 2020. Vào tháng 2/2009, 2 trung tâm này đã xác định đây là mục tiêu quan trọng có mức ưu tiên cao hơn dự án Titan Saturn System Mission (dự án khám phá vệ tinh [[Titan]] của Sao Thổ)<ref>{{chúChú thích web|url=http://news.bbc.co.uk/2/hi/science/nature/7897585.stm|titletiêu đề=Jupiter in space agencies' sights|firsttên 1=Paul|lasthọ 1=Rincon|publishernhà xuất bản=BBC News|accessdatengày truy cập = ngày 20 tháng 2 năm 2009 |datengày tháng = ngày 20 tháng 2 năm 2009}}</ref>. Mặc dù vậy, đóng góp của phía ESA vẫn đang bị đặt dấu hỏi do vấn đề tài chính<ref>{{chúChú thích web|url=http://sci.esa.int/science-e/www/object/index.cfm?fobjectid=41177|titletiêu đề=Cosmic Vision 2015–2025 Proposals|datengày tháng = ngày 21 tháng 7 năm 2007 |publishernhà xuất bản=ESA|accessdatengày truy cập = ngày 20 tháng 2 năm 2009}}</ref>. Dự án này có thể gồm một vệ tinh bay quanh Sao Mộc của ESA, một vệ tinh bay quanh Europa của NASA và một vệ tinh nghiên cứu từ trường Sao Mộc của [[Cơ quan nghiên cứu và phát triển hàng không vũ trụ Nhật Bản|JAXA]].
 
== Tiềm năng định cư ==
 
Từ năm 2003, NASA đã thực hiện một chương trình nghiên cứu mang tên ''HOPE'' (''Human Outer Planets Exploration'')<ref name=HOPE>{{chúChú thích web|titletiêu đề=Revolutionary Concepts for Human Outer Planet Exploration(HOPE)|lasthọ 1=Trautman|firsttên 1=Pat|coauthorscác tác giả=Bethke, Kristen|publishernhà xuất bản=NASA|yearnăm=2003|url=http://www.nasa-academy.org/soffen/travelgrant/bethke.pdf|formatđịnh dạng=pdf}}</ref> (Con người thám hiểm những hành tinh khác) phác ra viễn cảnh con người sẽ định cư trên các thiên thể khác của hệ Mặt Trời. Cụ thể người ta đưa ra ý tưởng về một căn cứ trên Callisto với một nhà máy có thể sản xuất [[nhiên liệu]] cho những cuộc hành trình xa hơn vào không gian<ref name="CallistoBase">{{chúChú thích web|titletiêu đề=Vision for Space Exploration|url=http://www.nasa.gov/pdf/55583main_vision_space_exploration2.pdf|publishernhà xuất bản=[[NASA]]|yearnăm=2004|formatđịnh dạng=pdf}}</ref>. Ưu điểm của việc đặt một trạm dừng chân như vậy ở Callisto là do bức xạ từ Sao Mộc tại Callisto là tương đối thấp, và do cấu tạo địa chất ổn định của vệ tinh này. Bên cạnh đó, việc xây dựng một căn cứ tại Callisto cũng giúp con người có cơ sở để tiếp tục khám phá vệ tinh [[Europa (vệ tinh)|Europa]], cũng như có thể lợi dụng lực hấp dẫn từ Sao Mộc để tăng tốc cho các tàu vũ trụ hướng xa hơn ra bên ngoài hệ Mặt Trời<ref name=HOPE/>.
 
== Chú thích ==