Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Hà Nội (tỉnh)”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi |
|||
Dòng 20:
Năm thứ 4 (1805) đổi [[huyện Quảng Đức]] làm [[Vĩnh Thuận]], đổi [[phủ Phụng Thiên]] làm [[phủ Hoài Đức]] (gồm 2 huyện) thuộc Bắc Thành.
Năm [[Minh Mệnh]] thứ 12 (1831) tách [[Từ Liêm|huyện Từ Liêm]] thuộc
Tỉnh Hà Nội thời Đồng Khánh gồm phần phía nam thành phố Hà Nội, thị xã Hà Đông và các huyện Thanh Oai, Chương Mỹ, Mỹ ĐỨc, Ứng Hòa, Thường Tín, Phú Xuyên tỉnh Hà Tây cũ và toàn bộ tỉnh Hà Nam hiện nay.
Dòng 26:
Tỉnh Hà Nội lúc đó có tỉnh lỵ là thành Thăng Long cũ, gồm có 4 phủ:
*[[Phủ Hoài Đức]]: kinh thành [[Thăng Long]] cũ và huyện [[Từ Liêm]] thuộc phủ Quốc Oai của tỉnh [[Sơn Tây (tỉnh Việt Nam)|Sơn Tây]]),
*
*[[Lý Nhân (phủ)|Phủ Lý Nhân]] có 5 huyện [[Bình Lục]], [[Duy Tiên]], [[Kim Bảng]], [[Lý Nhân|Nam Xương]] và [[Thanh Liêm]].
*[[Phủ Thường Tín]] có 3 huyện [[Phú Xuyên]], [[Thanh Trì]] và [[Thường Tín|Thượng Phúc]].
Dòng 35:
Sau [[hòa ước Giáp Thân (1884)|hiệp ước Patenôtre]], [[Tổng thống Pháp]] ra sắc lệnh thành lập thành phố Hà Nội, ngày [[1 tháng 10]] năm [[1888]], [[Đồng Khánh|vua Đồng Khánh]] ra đạo dụ nhượng hẳn cho Pháp thành Hà Nội.
Ngày [[26 tháng 12]] năm [[1896]] tỉnh Hà Nội (phần còn lại) chuyển tỉnh lỵ về [[Cầu Đơ]] (nay là [[hà Đông|thị xã Hà Đông]]) và đến ngày [[3 tháng 5]] năm [[1902]] thì đổi tên thành tỉnh [[Cầu Đơ]], đổi huyện Thọ Xương và Vĩnh Thuận làm huyện
Năm [[1890]], [[lý Nhân (phủ)|phủ Lý Nhân]] của tỉnh Hà Nội được tách ra để lập tỉnh [[Hà Nam]].
Dòng 44:
==Địa giới==
Phía đông giáp giang phận [[Sông Hồng|Nhị Hà]] qua hai huyện
Phía nam giáp địa phận bốn huyện [[Mỹ Lộc]], [[Vụ Bản]], [[Ý Yên]],
Đông-Tây cách nhau hơn 90 dặm, Nam-Bắc cách nhau 113 dặm 120 trượng.
|