Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Beyoncé”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
n clean up
Dòng 52:
Sau khi [[Destiny's Child]] tan rã vào tháng 6 năm 2005, cô phát hành album [[B'Day (album của Beyoncé)|''B'Day'']] (2006), bao gồm những ca khúc thành công "[[Déjà Vu (bài hát của Beyoncé)|Déjà Vu]]", "[[Irreplaceable]]" và "[[Beautiful Liar]]". Beyoncé cũng tham gia diễn xuất, giành một đề cử [[Giải Quả cầu vàng|Quả cầu vàng]] trong ''[[Giấc mơ danh vọng]]'' (2006) và vai diễn chính trong ''[[The Pink Panther]]'' (2006) và ''[[Obsessed]]'' (2009). Cuộc hôn nhân với rapper [[Jay-Z]] và vai diễn [[Etta James]] trong ''[[Cadillac Records]]'' (2008) ảnh hưởng đến hình ảnh của cô trong album thứ ba, ''[[I Am... Sasha Fierce]]'' (2008). Album lập kỷ lục giành sáu [[giải Grammy]] vào năm 2010, bao gồm giải "[[Song of the year|Bài hát của năm]]" cho "[[Single Ladies (Put a Ring on It)]]". Beyoncé tạm dừng sự nghiệp âm nhạc và lấy lại sự kiểm soát vào năm 2010; album thứ tư của cô, [[4 (album của Beyoncé)|''4'']] (2011), mang giai điệu chín chắn và ngọt dịu, khám phá phong cách nhạc [[funk]] của những năm 1970, [[pop]] của những năm 1980 và [[soul]] của những năm 1990. Album thứ năm được đánh giá cao của cô, [[Beyoncé (album)|''Beyoncé'']] (2013) là sự khác biệt với các sản phẩm phát hành trước đó bởi sản xuất thăm dò và thử nghiệm về các chủ đề tăm tối hơn. Album thứ sáu của cô, [[Lemonade (album của Beyoncé)|''Lemonade'']] (2016), được phát hành cùng với một bộ phim ngắn cùng tên.
 
Trong suốt sự nghiệp, cô đã bán hơn 100 triệu đĩa nhạc như một nghệ sĩ đơn ca và hơn 60 triệu đĩa với [[Destiny's Child]], khiến cô trở thành một trong những [[Danh sách nghệ sĩ âm nhạc bán đĩa nhạc chạy nhất|nghệ sĩ âm nhạc bán đĩa nhạc chạy nhất]].<ref name="chicagotribune1">{{cite news|url=http://www.chicagotribune.com/chi-beyonce-album-review-beyonce-self-titled-album-reviewed-20131214-column.html|title='Beyonce' album review: More than the delivery is a surprise|publisher=Chicago Tribune|date=December 14, 2013|accessdate=March 7, 2015}}</ref><ref>{{cite journal|last1=Hoffmann|first1=Melody K.|title='Ms. Kelly' Takes Charge Sings About Healing And Heartbreak In New Music|journal=[[Jet (magazine)|Jet]]|date=July 2, 2007|page=61|url=https://books.google.com/books?id=CjsDAAAAMBAJ&pg=PA61#v=onepage&q&f=false|accessdate=July 18, 2014}}</ref><ref>{{cite news|title=Destiny's Child reunite on new Michelle Williams song 'Say Yes' – listen|url=http://www.nme.com/news/destinys-child/77452|accessdate=July 18, 2014|work=NME|date=May 22, 2014}}</ref> Cô giành được 22 [[giải Grammy]] và là nữ nghệ sĩ được đề cử nhiều nhất trong lịch sử của giải thưởng. Cô còn giành 24 [[giải Video âm nhạc của MTV]], nhiều hơn bất kể một nghệ sĩ nào khác. [[Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Hoa Kỳ]] công nhận cô là "Nghệ sĩ giành nhiều chứng nhận nhất thập niên 2000". Năm 2009, ''[[Billboard]]'' vinh danh cô là "Nghệ sĩ đứng đầu Top Radio Songs của thập kỷ", "Nữ nghệ sĩ hàng đầu của thập niên 2000" và trao tặng giải thưởng Thiên niên kỷ vào năm 2011. Tạp chí ''[[Time (tạp chí)|Time]]'' liệt kê cô trong danh sách 100 người có ảnh hưởng nhất thế giới trong năm 2013 và năm 2014. ''[[Forbes]]'' cũng gọi cô là nữ nghệ sĩ quyền lực nhất trong làng giải trí năm 2015.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.bet.com/news/music/2015/05/26/beyonce-is-the-most-powerful-woman-in-entertainment.html|tiêu đề=Beyoncé is the Most Powerful Woman in Entertainment|nhà xuất bản=[[BET]]|firsttên 1=Moriba|lasthọ 1=Cummings|ngày=May 26, 2015|ngày truy cập=July 5, 2016}}</ref> Vào năm 2016, Beyoncé xuất hiện ở vị trí thứ sáu trong danh sách [[Nhân vật của năm]].<ref>{{Chú thích web|url=http://time.com/time-person-of-the-year-2016-beyonce-runner-up/?iid=toc|tiêu đề=Beyonce: TIME Person of the Year Runner Up|work=[[TIME (magazine)|TIME]]|firsttên 1=Melissa|lasthọ 1=Harris-Perry|ngày truy cập=December 11, 2016}}</ref>
 
== Thời thơ ấu ==
Dòng 68:
[[Hình:Destiny's Child Tour.jpg|nhỏ|phải|Destiny's Child đang trình diễn ca khúc thành công năm 2000 của mình, "[[Say My Name]]".]]
 
Lấy từ một đoạn trong quyển sách ''Book of Isaiah'', tên của nhóm đã được đặt lại là [[Destiny's Child|Destiny’s Child]] vào năm [[1993]].<ref name="Kaufman">{{chú thích báo|last=Kaufman|first=Gil|title=Destiny's Child's Long Road To Fame (The Song Isn't Called "Survivor" For Nothing)|url=http://www.mtv.com/news/articles/1504044/20050613/destinys_child.jhtml|work=MTV News|date=13 tháng 6 năm 2005|accessdate=1 tháng 4 năm 2008}}</ref> Cùng với nhau, các thành viên đã tham gia các sự kiện tại địa phương, và sau bốn năm cùng nhau, nhóm đã ký hợp đồng với [[Columbia Records]] vào cuối năm [[1997]]. Cùng năm đó, Destiny's Child đã chính thức ghi đĩa bài hát đầu tay của mình, "[[Killing Time]]", làm nhạc nền của bộ phim năm [[1997]],''[[Men in Black (phim)|Men in Black]] ''.<ref name="Kaufman" /><ref name="J.R.">{{Chú thích web|url=http://music.yahoo.com/read/interview/12027658|tiêu đề=All Grown Up|ngày=3 tháng 3 năm 1998|ngày truy cập=12 tháng 1 năm 2007|lasthọ 1=Reynolds|firsttên 1=J.R.|archiveurlurl lưu trữ=http://web.archive.org/web/20081216031102/http://music.yahoo.com/read/interview/12027658|archivedatengày lưu trữ=16/12/2008|work=Yahoo! Music}}</ref> Một năm sau, nhóm phát hành [[Destiny's Child (album)|album đầu tay tự làm của họ]],<ref name="Farley">{{chú thích báo|last=Farley|first=Christopher John|title=Call Of The Child|url=http://www.time.com/time/magazine/article/0,9171,998976,00.html|work=TIME|date=15 tháng 1 năm 2001|accessdate=12 tháng 4 năm 2008}}</ref> thành công lớn đầu tiên của họ "[[No, No, No (Destiny's Child hát)|No, No, No]]". Album thành lập nhóm như là một hành động có hiệu quả trong ngành công nghiệp âm nhạc, vừa tích lũy kinh nghiệm vừa kiếm thu nhập nhưng họ đã giành được 3 giải thưởng của [[Soul Train Lady of Soul Awards]] là "Đĩa đơn hay nhất cho R&B/Soul", "Album R&B/Soul tốt nhất của năm" và "Best R&B/Soul or Rap New Artist" cho "[[No, No, No]]".<ref name="Kaufman" /> Tuy nhiên, nhóm đã đạt đến trình độ ngôi sao sau khi họ phát hành và giành được đĩa bạch kim với album thứ hai ''[[The Writing's on the Wall]]'' trong năm [[1999]]. Album có một số bài hát của nhóm được nhiều người biết đến như "[[Bills, Bills, Bills]]", đĩa đơn đầu tiên trong album thứ hai của nhóm, "[[Jumpin' Jumpin']]", và "[[Say My Name]]", mà đã trở thành bài hát thành công nhất của họ vào thời điểm đó, và sẽ vẫn là một trong những bài hát dạo đầu của họ. "[[Say My Name]]" giành chiến thắng trong [[Grammy Award for Best R&B Performance by a Duo or Group with Vocals|Best R&B Performance by a Duo or Group with Vocals]] và [[Giải Grammy cho Bài hát R&B xuất sắc nhất|Giải Grammy dành cho Bài hát R&B xuất sắc nhất]] tại [[43rd Grammy Awards|Giải Grammy 2001]].<ref name="Kaufman" /> ''[[The Writing's on the Wall]]'' đã bán được hơn bảy triệu bản,<ref name="Farley" /> về cơ bản trở thành album đột phá của họ.<ref name="ASCAP">{{Chú thích web|tiêu đề=The Best in Hip hop/Soul |url=http://www.ascap.com/playback/2004/winter/hiphopsoul2.html |work=American Society of Composers, Authors and Publishers |ngày truy cập=2 tháng 4 năm 2008}}</ref><ref name="Anthony">{{Chú thích web|lasthọ 1=Anthony |firsttên 1=James |tiêu đề=Of course you can lose yourself |url=http://www.guardian.co.uk/music/2006/aug/18/urban.popandrock |work=The Guardian |ngày=18 tháng 8 năm 2006 |ngày truy cập=16 tháng 4 năm 2008}}</ref>
 
Cùng với những thành công thương mại của họ, nhóm đã vướng vào tình trạng mâu thuẫn nội bộ - công bố công khai liên quan đến việc nộp đơn vụ kiện về vi phạm hợp đồng. Hai thành viên của nhóm - [[LeToya Luckett]] và [[LaTavia Roberson]] - buộc tội ông Mathew Knowles chia lợi nhuận của nhóm không đều cho các thành viên, giành quyền kiểm soát quá nhiều và thiên vị một cách không công bằng đối với cô con gái Beyoncé của ông. Trong khi cả hai không hề có ý định rời khỏi nhóm nhưng mối quan hệ mâu thuẫn giữa các thành viên trong nhóm vẫn tự nhiên lớn lên theo một chiều hướng xấu. Khi video "[[Say My Name]]" của nhóm ra mắt, rất nhiều người hâm mộ rất ngạc nhiên khi thấy 2 thành viên mới là [[Michelle Williams (ca sĩ)|Michelle Williams]] và [[Farrah Franklin]] xuất hiện cùng với Beyoncé và [[Kelly Rowland]].<ref name="Kaufman" /> Không lâu sau, [[Farrah Franklin]], người thay thế một thành viên trong nhóm cách đó 5 tháng, rời nhóm vì không chịu nổi áp lực làm việc.<ref name="Farley" /> Cùng thời gian đó, vào cuối năm [[2000]], Roberson và Luckett từ bỏ vụ kiện chống lại Rowland và Knowles nhưng vẫn tiếp tục theo kiện chống lại cha của Knowles. Theo như thỏa thuận giữa hai bên, không bên nào được công kích phía còn lại trước báo chí và công luận.<ref name="Kaufman" /> Qua những vụ kiện, nhóm chỉ còn ba thành viên đó là Beyoncé Knowles, [[Kelly Rowland]] và [[Michelle Williams]].
Dòng 76:
Trong năm [[2000]], Knowles ký hợp đồng thu 3 album cho hãng đĩa [[Columbia Records]].<ref name="SeymourDestiny">{{chú thích báo|url=http://www.ew.com/ew/article/0,,85643,00.html |title=Manifest Destiny |last=Seymour |first=Craig |date=18 tháng 10 năm 2000 |work=Entertainment Weekly |accessdate=26 tháng 2 năm 2009}}</ref> Khi còn ở trong nhóm [[Destiny's Child]], Knowles cũng góp mặt trong bài hát song ca với [[Marc Nelson]] "[[After All is Said and Done]]", video ca nhạc "[[I Got That]]" của nghệ sĩ nhạc rap [[Amil]].<ref name="SeymourDestiny" /> Vừa hoàn thành xong album "[[Survivor]]" của Destiny's Child, đầu năm [[2001]], Beyoncé nhận vai Carmen trong bộ phim truyền hình ăn khách của kênh [[MTV Hoa Kỳ]], Carmen: A Hip Hopera, đóng cặp với diễn viên [[Mekhi Phifer]]. Được làm tại [[Philadelphia]], bộ phim là một sự thể hiện hiện đại của vở opera thế kỷ XIX ''[[Carmen]]'' của nhà soạn nhạc người Pháp [[Georges Bizet]].<ref>{{chú thích báo|last=Basham |first=David |title=Beyoncé To Star In "Carmen" Remake |url=http://www.mtv.com/news/articles/1438067/20010118/destinys_child.jhtml |work=MTV News |date=18 tháng 1 năm 2001 |accessdate=1 tháng 4 năm 2008}}</ref>
 
Năm [[2002]], Beyoncé nhận vai [[Foxxy Cleopatra]] trong bộ phim hài ''[[Austin Powers in Goldmember]]'' cùng với diễn viên [[Mike Myers]].<ref>{{chú thích báo|last=Moss |first=Corey |title=Beyonce Records Song Written By Mike Myers For 'Powers' Flick |url=http://www.mtv.com/news/articles/1451333/20011205/destinys_child.jhtml |work=MTV News |date=6 tháng 12 năm 2001 |accessdate=1 tháng 4 năm 2008}}</ref> Bộ phim này đã gặt hái nhiều thành công với doanh thu 73,1 triệu [[đô la]] trong tuần công chiếu đầu tiên.<ref name="People" /> Cũng trong năm đó, cô cho ra đời đĩa đơn đầu tiên trong sự nghiệp solo mang tên "[[Work It Out (Beyoncé Knowles hát)|Work It Out]]" cho bộ phim.<ref>{{chú thích báo|last=Moss |first=Corey |title=Beyonce, Britney Serve Up First Singles From "Goldmember" |url=http://www.mtv.com/movies/news/articles/1454495/20020522/story.jhtml |work=MTV News |date=23 tháng 5 năm 2002 |accessdate=1 tháng 4 năm 2008}}</ref> Đây là ca khúc mang một phong cách khác biệt của Knowles tuy nhiên không đạt được thành công tại [[Hoa Kỳ]]. Năm tiếp theo đó, Knowles cùng diễn viên [[Cuba Gooding, Jr.]] đóng cùng với nhau trong bộ phim hài lãng mạn "[[The Fighting Temptations]]", và thu âm bài hát "[[Fighting Temptation]]" để làm nhạc phim (cùng với các ca sĩ nữ [[Missy Elliott]], [[MC Lyte]], và nghệ sĩ hát rap [[Free (rapper)|Free]]) và một bản Cover của "[[Fever]]".<ref>{{chú thích báo|last=Downey |first=Ryan J. |title=Beyonce Teams With Diddy, Destiny On "Temptations" Soundtrack |url=http://www.mtv.com/news/articles/1476929/20030814/knowles_beyonce.jhtml |work=MTV News |date=14 tháng 8 năm 2003 |accessdate=1 tháng 4 năm 2008}}</ref><ref>{{Chú thích web|lasthọ 1=Moss |firsttên 1=Correy |tiêu đề=Beyoncé: Genuinely In Love - Part 1 |url=http://www.mtv.com/bands/b/beyonce/news_feature_062703/ |work=MTV News |ngày truy cập=1 tháng 4 năm 2008}}</ref>
 
===2003–07: ''Dangerously in Love'' và ''B'Day''===
Dòng 84:
Sau khi Williams và Rowland phát hành những bài hát trong nỗ lực solo của họ, Knowles phát hành album solo đầu tay của cô, ''[[Dangerously in Love]]'', vào [[tháng sáu|tháng 6]] năm [[2003]].<ref name="Moss" /> Với đặc trưng là có nhiều cộng tác viên âm nhạc, album chứa một sự kết hợp của những bài hát [[uptempo]] và [[Slow jam]]. Album ra mắt đã đứng vị trí số một trong ''Billboard'' 200, bán được 317.000 bản sao trong tuần đầu tiên phát hành.<ref name="Martens3" /> Chứng nhận 4x bạch kim vào [[5 tháng 8]] [[2004]] bởi [[Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ|Recording Industry Association of America]],<ref name="RIAA">{{chú thích báo|title=Gold and Platinum |url=http://riaa.com/goldandplatinumdata.php?resultpage=1&table=SEARCH_RESULTS&artist=Beyonce&startMonth=1&endMonth=1&startYear=1958&endYear=2008&sort=Artist&perPage=25 |work=Recording Industry Association of America |accessdate=2 tháng 4 năm 2008}}</ref> album đã bán được 4,2 triệu bản sao cho đến nay tại [[Hoa Kỳ]].<ref name="Hope">{{chú thích báo|last=Hope |first=Clover |title=Beyoncé To Celebrate "B'Day" In September |url=http://www.billboard.com/bbcom/news/article_display.jsp?vnu_content_id=1002577296 |work=Billboard |publisher=Nielsen Business Media, Inc |date=30 tháng 5 năm 2006 |accessdate=1 tháng 4 năm 2008}}</ref>
 
"[[Crazy in Love (Beyoncé Knowles hát)|Crazy in Love]]", được phát hành như bài hát đầu tiên của album đứng trong ''Billboard'' Hot 100 trong 8 tuần liên tiếp<ref>{{Chú thích web|lasthọ 1=Bonson |firsttên 1=Fred |tiêu đề=Chart Beat Chat |url=http://www.billboard.com/bbcom/search/google/article_display.jsp?vnu_content_id=1002035011 |work=Billboard |nhà xuất bản=Nielsen Business Media, Inc |ngày=17 tháng 2 năm 2006 |ngày truy cập=2 tháng 4 năm 2008|archiveurlurl lưu trữ=https://archive.is/mFlJ|archivedatengày lưu trữ = ngày 27 tháng 5 năm 2012}}</ref> và đứng đầu bảng xếp hạng nhiều nước trên toàn thế giới. Knowles cũng thành công trong việc thống trị âm nhạc tại [[Vương quốc Anh]], đồng thời đứng đầu bảng xếp hạng album và đĩa đơn ở đó.<ref>{{chú thích báo|last=Sexton |first=Paul |title=Beyonce Continues U.K. Chart Dominance |url=http://www.billboard.com/bbcom/search/google/article_display.jsp?vnu_content_id=1938016 |work=Billboard |publisher=Nielsen Business Media, Inc |date=21 tháng 7 năm 2003 |accessdate=2 tháng 4 năm 2008}}</ref><ref>{{chú thích báo|last=Sexton |first=Paul |title=Beyonce Rules Again On U.K. Charts |url=http://www.billboard.com/bbcom/search/google/article_display.jsp?vnu_content_id=1933208 |work=Billboard |publisher=Nielsen Business Media, Inc |date=14 tháng 7 năm 2003 |accessdate=2 tháng 4 năm 2008}}</ref> Bài hát thứ hai trong Album, "[[Baby Boy (bài hát)|Baby Boy]]", mà tính năng múa minh họa ca sĩ [[Sean Paul]], cũng đã trở thành một trong những hit lớn nhất của năm [[2003]], thống trị radio [[airplay (radio)|airplay]] Hoa kỳ và chiếm vị trí đứng đầu trong chín tuần liên tiếp trên ''Billboard'' Hot 100 - hơn một tuần so với "[[Crazy in Love]]".<ref>{{chú thích báo|last=Martens |first=Todd |title=Beyonce, Sean Paul Creep Closer To No. 1 |url=http://www.billboard.com/bbcom/search/google/article_display.jsp?vnu_content_id=1977331 |work=Billboard |publisher=Nielsen Business Media, Inc |date=11 tháng 9 năm 2003 |accessdate=2 tháng 4 năm 2008}}</ref><ref>{{chú thích báo|last=Martens |first=Todd |title="Stand Up" Ends "Baby Boy" Reign |url=http://www.billboard.com/bbcom/search/google/article_display.jsp?vnu_content_id=2042602 |work=Billboard |publisher=Nielsen Business Media, Inc |date=28 tháng 11 năm 2003 |accessdate=2 tháng 4 năm 2008}}</ref> Không giống như "[[Crazy in Love]]", ba đĩa đơn cuối cùng đạt được nhiều thành công ngay lập tức về thương mại, thúc đẩy album đứng vào vị trí đầu bảng xếp hạng và đi một chặng đường dài về hướng là nó đang được chứng nhận nhiều đĩa bạch kim.<ref>{{chú thích sách|last=Stacy-Deanne | coauthors=Kelly Kenyatta, Natasha Lowery |title=Alicia Keys, Ashanti, Beyonce, Destiny's Child, Jennifer Lopez & Mya: Divas of the New Millennium |url=http://books.google.com/books?id=1ZGMcUEvkyEC&pg=PA60&dq=Baby+Boy+by+Beyonce&lr=&as_brr=0&sig=H1TzeKTzJqsBqow_O7HLlQZ4VuM#PPA61,M1 |publisher=Amber Books Publishing |year=2005 |pages=60–61 |isbn=0974977969 |accessdate=2 tháng 4 năm 2008}}</ref>
 
Knowles giành được 5 giải thưởng trong giải Grammy lần 46 năm 2004, cho nỗ lực solo của mình, bao gồm [[Grammy Award for Best Female R&B Vocal Performance|Best Female R&B Vocal Performance]] cho "[[Dangerously in Love (bài hát)|Dangerously in Love 2]]", Bài hát R&B hay nhất cho "[[Crazy in Love]]", và [[Grammy Award for Best Contemporary R&B Album|Best Contemporary R&B Album]]. Cô có cùng điểm nổi trội này với bốn nữ nghệ sĩ khác: [[Lauryn Hill]] ([[41st Grammy Awards|1999]]), [[Alicia Keys]] ([[44th Grammy Awards|2002]]) [[Norah Jones]] ([[45th Grammy Awards|2003]]) và [[Amy Winehouse]] ([[50th Grammy Awards|2008]])<ref name="ASCAP" /><ref>{{Chú thích web|tiêu đề=Yes, America, Amy Winehouse Is a Star |url=http://blogs.bbcamerica.com/anglophenia/2008/02/11/yes-america-amy-winehouse-is-a-star/ |work=BBC America |ngày=11 tháng 2 năm 2008 |ngày truy cập=13 tháng 2 năm 2008}}</ref> cho đến năm [[2010]], khi cô giành 6 giải Grammy trong một đêm. Năm [[2004]], cô đã giành một giải [[BRIT Awards|BRIT Award]] cho nữ ca sĩ quốc tế hát solo.<ref>{{Chú thích web|tiêu đề=Brit Awards 2004 winners |url=http://www.bbc.co.uk/radio1/news/brits2004/winners.shtml |work=BBC UK |ngày=17 tháng 2 năm 2004 |ngày truy cập=2 tháng 4 năm 2008}}</ref>
Dòng 100:
[[Tháng mười|Tháng 10]] năm [[2005]], nhóm cho ra đời album ''[[Number 1's (Destiny's Child album)|#1's]]'' tổng hợp các bài hát hay nhất của nhóm và 3 ca khúc mới. Số hit lớn nhất của bộ sưu tập cũng bao gồm ba bài nhạc mới, bao gồm "[[Stand Up for Love]]". Destiny's Child được vinh danh với một ngôi sao trên [[Đại lộ Danh vọng Hollywood]] vào [[tháng ba|tháng 3]] năm [[2006]].<ref name="People2" /> Họ cũng được công nhận là nhóm nhạc nữ trên thế giới có số đĩa bán chạy nhất mọi thời đại.<ref>{{chú thích báo|title=Beyonce Knowles |url=http://www.time.com/time/specials/2007/time100walkup/article/0,28804,1611030_1610841_1609748,00.html |work=TIME |accessdate=12 tháng 4 năm 2008}}</ref><ref>{{chú thích báo|last=Keller |first=Julie |title=Destiny's World Domination |url=http://music.yahoo.com/mariah-carey/news/destinys-world-domination--23584356 |work=[[Yahoo! Music]] |date=1 tháng 9 năm 2005 |accessdate=28 tháng 12 năm 2006}}</ref> Nhà soạn nhạc nổi tiếng ''David Foster'', và con gái của ông ''Amy Foster-Gillies'', cùng với Knowles viết bài hát "''Stand Up For Love''". Ca khúc đã trở thành bài hát chính thức của Ngày Trẻ em thế giới liên quan đến những vấn đề như nạn nghèo đói ở thế giới thứ 3 và thiên tai. "Stand Up For Love" là đĩa đơn cuối cùng của nhóm. "#1's " đứng ở vị trí số 6 trong tổng số top 40 album hay nhất trên bảng xếp hạng Anh quốc và bán được hơn 30.000 bản trong tuần đầu tiên, hơn thế nữa nó còn đạt vị trí quán quân trên bảng xếp hạng Billboard 200 album của Hoa Kỳ với 113.000 bản bán ra trong tuần đầu ra mắt. Buổi trình diễn cuối cùng của Destiny’s Child được phát sóng trên truyền hình là tại NBA All-Star Game ngày 19 tháng 2 năm 2006, tại Houston, Texas – quê hương của các cô gái.
 
Tiếp tục với sự nghiệp diễn xuất, Knowles nhận lời mời đóng phim ''[[The Pink Panther (phim 2006)|The Pink Panther]]''. Trong bộ phim này cô vào vai Xania, ca sĩ nhạc Pop nổi tiếng, đóng cùng với diễn viên [[Steve Martin]], người đóng vai [[Inspector Clouseau]].<ref name="IGN">{{Chú thích web|lasthọ 1=Otto |firsttên 1=Jeff |tiêu đề=Interview: Beyonce Knowles |url=http://movies.ign.com/articles/686/686598p1.html |work=IGN |ngày=8 tháng 2 năm 2006 |ngày truy cập=1 tháng 4 năm 2008}}</ref><ref>{{chú thích báo|last=Moss |first=Corey |title=Beyonce To Star Opposite Steve Martin In "Pink Panther" |url=http://www.mtv.com/movies/news/articles/1485971/20040325/story.jhtml |work=MTV News |date=25 tháng 3 năm 2004 |accessdate=1 tháng 4 năm 2008}}</ref> Bộ phim phát hành vào ngày [[10 tháng 2]] năm [[2006]] và chiếm được ngôi đầu bảng xếp hạng tại Hoa Kỳ với 21,7 triệu đô la thu về từ tuần đầu tiên.<ref name="People" /> Beyoncé còn thu âm bài hát "[[Check on It]]" cho soundtrack của bộ phim, với hai ca sĩ nhạc rap [[Slim Thug]] và [[Bun B]]. "Check On It" giành vị trí đầu bảng của bảng xếp hạng ''Billboard Hot 100'' tại Hoa Kỳ trong 5 tuần liên tục.<ref name="IGN" /> Video clip của ca khúc giành giải "''Video R&B xuất sắc nhất''" trong lễ trao giải ''MTV Video Music Awards'' năm [[2006]].
 
Vào cuối năm [[2005]], Knowles một lần nữa để album thứ hai của mình bị giữ lại sau khi cô hoàn thành vai phụ trong bộ phim âm nhạc [[Giấc mơ danh vọng]], bộ phim được làm lại từ vở Broadway cùng tên vào năm [[1981]] nói về cuộc đời ca hát của nhóm nhạc nữ nổi tiếng tại hãng thu âm Motown, The Supremes. Trong bộ phim, cô đóng vai Deena Jones - được coi là hiện thân của Diana Ross.<ref name="IGN" /><ref>{{chú thích báo|last=Tecson |first=Brandee J. |title=Beyonce Slimming Down And "Completely Becoming Deena" |url=http://www.mtv.com/movies/news/articles/1523138/20060203/story.jhtml |work=MTV News |date=3 tháng 2 năm 2006 |accessdate=1 tháng 4 năm 2008}}</ref> Knowles nói với tạp chí ''Billboard'': "''Tôi sẽ không viết cho album này cho đến khi tôi thực hiện xong bộ phim.''""<ref name="Hope" /> Ra mắt vào [[tháng mười hai|tháng 12]] năm [[2006]], dàn diễn viên của ''Dreamgirls'' bao gồm [[Jamie Foxx]], [[Eddie Murphy]], và [[Jennifer Hudson]]. Knowles cũng đã thu âm bài hát "[[Listen (bài hát)|Listen]]"<ref>{{chú thích báo|last=Reid |first=Shaheem |title=Beyonce Wants End To Drama Over New Drama "Dreamgirls"; Sets Tour |url=http://www.mtv.com/movies/news/articles/1547863/20061212/story.jhtml |work=MTV News |date=13 tháng 12 năm 2006 |accessdate=1 tháng 4 năm 2008}}</ref> cho soundtrack của bộ phim. Phim đã giành 3 giải thưởng quan trọng tại lễ trao giải [[Giải Quả cầu vàng|Quả Cầu Vàng]] lần thứ 64. Vào [[14 tháng 12]] năm [[2006]], Knowles đã giành được hai đề cử cho ''Diễn viên chính Xuất sắc cho thể loại phim Nhạc Kịch hay Phim hài'' và ''Giải Nhạc phim của năm'' cho ''Listen''.<ref>{{chú thích báo|url=http://www.timesonline.co.uk/article/0,,3-2505178,00.html |title=Nominees for the 2007 Golden Globe Awards in full |work=[[The Times|Times Online]] |date=15 tháng 12 năm 2006 |accessdate=12 tháng 1 năm 2007 | location=Luân Đôn}}</ref>
Dòng 108:
Sau khi hoàn tất vai diễn Denna Jones trong bộ phim ''Dreamgirls'', Knowles tiếp tục bắt tay vào album thứ hai của mình. Cô nói với MTV News: ''"Khi bộ phim hoàn thành, tôi đã có rất nhiều ý tưởng cho album mới của mình"''.<ref>{{chú thích báo|last=Reid |first=Shaheem |title=Be All You Can, B. |url=http://www.mtv.com/bands/b/beyonce/news_feature_081406/index2.jhtml |work=MTV News |accessdate=1 tháng 4 năm 2008}}</ref> Trong album này, Beyoncé đã hợp tác với nhiều nhạc sĩ như [[Rich Harrison]], [[Rodney Jerkins]] và [[Sean Garrett]] tại một tòa nhà thu âm của [[Sony]] ở thành phố [[Thành phố New York|New York]]. Cô đồng sáng tác và đồng sản xuất gần như tất cả các bài hát trong album, album mới của cô được hoàn tất chỉ sau ba tuần.<ref>{{chú thích báo|last=Vineyard |first=Jennifer |title=Beyonce's Triple Threat: New Album, Film, Fashion Line Before Year's End |url=http://www.mtv.com/news/articles/1533201/20060530/knowles_beyonce.jhtml |work=MTV News |date=31 tháng 5 năm 2006 |accessdate=1 tháng 4 năm 2008}}</ref>
 
B’Day được phát hành trên toàn thế giới vào ngày [[4 tháng 9]] năm [[2006]], [[5 tháng 9]] ở [[Hoa Kỳ]] để đúng vào dịp sinh nhật lần thứ 25 của cô. Album đứng đầu trên bảng xếp hạng ''Billboard 200'', bán được hơn 541.000 bản tính riêng tại [[Hoa Kỳ]] trong tuần đầu tiên, ngay lập tức trở thành album số 1 đem về cho cô danh hiệu Album của một nữ ca sĩ có doanh số cao nhất trong tuần đầu tại Hoa Kỳ của năm [[2006]].<ref>{{chú thích báo|last=Hasty |first=Katie |title=Beyonce's 'B-Day' Makes Big Bow At No. 1 |url=http://www.billboard.com/bbcom/search/google/article_display.jsp?vnu_content_id=1003121337 |work=Billboard |publisher=Nielsen Business Media, Inc |date=13 tháng 9 năm 2006 |accessdate=5 tháng 1 năm 2008}}</ref> B'Day được chứng nhận 3x Bạch Kim tại [[Hoa Kỳ]] bởi [[Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ|Recording Industry Association of America]].<ref name="RIAA" /> Ở [[Anh]], album vụt lên vị trì đầu bảng với đĩa đơn đầu tiên "[[Déjà Vu (Beyoncé Knowles hát)|Déjà Vu]]" hát cùng với ca sĩ nhạc rap [[Jay-Z]]. "''[[Irreplaceable]]''", đĩa đơn toàn cầu thứ hai và đĩa đơn thứ ba ở [[Hoa Kỳ]] của album được phát hành và [[tháng mười|tháng 10]] năm [[2006]], vươn lên vị trì thứ nhất trên bảng xếp hạng ''Billboard Hot 100'' trong 10 tuần liên tiếp, trở thành đĩa đơn đứng ở vị trí đầu bảng lâu nhất trong sự nghiệp solo của Knowles.<ref>{{chú thích báo|last=Hasty |first=Katie |title=Beyonce Makes It Ten Weeks At No. 1 With 'Irreplaceable' |url=http://www.billboard.com/bbcom/news/article_display.jsp?vnu_content_id=1003543450 |work=Billboard |publisher=Nielsen Business Media, Inc |date=8 tháng 2 năm 2007 |accessdate=2 tháng 4 năm 2008}}</ref> Tuy là một thành công về mặt thương mại, nhưng thời gian sản xuất khá ngắn là điểm khiến album hứng chịu công kích từ giới phê bình.<ref>{{Chú thích web|lasthọ 1=Hiatt |firsttên 1=Brian |tiêu đề=Beyonce: B'Day |url=http://www.rollingstone.com/music/albumreviews/bday-20060921 |work=Rolling Stone |ngày=21 tháng 9 năm 2006 |ngày truy cập=2 tháng 4 năm 2008}}</ref><ref>{{chú thích báo|last=Rodman |first=Sarah |title=Beyonce shows rage and range on new release|url=http://articles.boston.com/2006-09-04/news/29242390_1_beyonce-freakum-dress-main-man |work=The Boston Globe |publisher=The New York Times Company |date=4 tháng 9 năm 2006 |accessdate=31 tháng 1 năm 2009}}</ref><ref>{{Chú thích web|lasthọ 1=Kellman |firsttên 1=Andy |tiêu đề=Album Review: B'Day |url=http://www.allmusic.com/album/bday-r852067 |nhà xuất bản=Allmusic |ngày truy cập=8 tháng 1 năm 2008}}</ref> Album trở thành một thành công lớn của Beyoncé trong năm ấy, vượt mặt cả nữ ca sĩ nhạc Pop nổi tiếng [[Christina Aguilera]] vốn đã rất thành công trên thị trường âm nhạc. Các bảng xếp hạng âm nhạc [[Rhythm and blues|R&B]] tại [[Hoa Kỳ]] và [[Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland|Anh Quốc]] tràn ngập tên của Beyoncé. Báo chí nhắc đến cô như một hiện tượng âm nhạc đối với đại bộ phận giới trẻ. Album tổng cộng giành được 6 đề cử và thắng 1 giải [[Giải Grammy|Grammy]].
 
Knowles đã phát hành lại ''B’Day'' vào [[3 tháng 4]] năm [[2007]] như là một ấn bản cao cấp hơn,<ref>{{chú thích báo|author=MTV News staff |title=For The Record: Quick News On Mariah, Notorious B.I.G., Paul Wall, Beyonce, Shakira, Fall Out Boy & More |url=http://www.mtv.com/news/articles/1552323/20070213/carey_mariah.jhtml |work=MTV News |date=13 tháng 2 năm 2007 |accessdate=1 tháng 4 năm 2008}}</ref> với 5 ca khúc mới và phiên bản [[tiếng Tây Ban Nha]] của "''[[Irreplaceable]]''" và "''[[Listen]]''".<ref name="MTVNewsStaff">{{chú thích báo|title=For The Record: Quick News On Mariah, Notorious B.I.G., Paul Wall, Beyonce, Shakira, Fall Out Boy & More |url=http://www.mtv.com/news/articles/1552323/20070213/carey_mariah.jhtml |work=MTV News |date=13 tháng 2 năm 2007 |accessdate=3 tháng 4 năm 2008}}</ref> Knowles cũng phát hành đĩa DVD của album với tên gọi ''B'Day Anthology (Tuyển tập B'Day)'' bao gồm video âm nhạc của 10 bài hát trong album ''B'Day''.<ref name="MTVNewsStaff" /><ref name="Vineyard1">{{Chú thích web|lasthọ 1=Vineyard |firsttên 1=Jennifer |tiêu đề=Beyonce: Behind The B'Day Videos 1 |url=http://www.mtv.com/bands/b/beyonce/videos_07/news_feature_040207/index.jhtml |work=MTV News |ngày truy cập=2 tháng 4 năm 2008}}</ref> Cô bắt đầu chuyến lưu diễn vòng quanh thế giới với tên gọi ''The Beyoncé Experience'' với trên 90 địa điểm. Buổi biểu diễn ở [[Staples Centre, Los Angeles]] vào ngày [[2 tháng 9]] năm [[2007]] với sự tham gia của các nghệ sĩ khách mời đặc biệt [[Jay-Z]], [[Kelly Rowland]] và [[Michelle Williams]] - 2 thành viên còn lại của Destiny's Child - đã được thu lại và phát hành dưới dạng DVD mang tên "[[The Beyoncé Experience Live]]".<ref>[http://www.answers.com/topic/the-beyonc-experience-live-dvd The Beyonce Experience Live DVD="Guy Charbonneau (engineer)'']</ref>
 
Tại đêm trao giải [[Giải Grammy|Grammy]] năm [[2007]], B'Day đã mang lại cho Knowles một giải thưởng Grammy là ''Album R&B hiện đại xuất sắc nhất''.<ref>{{Chú thích web|tiêu đề=49th Annual Grammy Award Winnerslist |url=http://www.grammy.com/GRAMMY_Awards/49th_show/list.aspx |work=The Recording Academy |ngày truy cập=2 tháng 4 năm 2008|archiveurlurl lưu trữ=http://web.archive.org/web/20061208025508/http://www.grammy.com/GRAMMY_Awards/49th_Show/list.aspx|archivedatengày lưu trữ=8/12/2006}}</ref> Tại lễ trao giải ''American Music Awards 2008 (Giải thưởng Âm nhạc Thường Niên Mỹ năm 2008)'', Knowles đã lập nên lịch sử khi trở thành nữ ca sĩ đầu tiên giành được giải thưởng ''International Artist Award'' (Giải thưởng Nghệ sĩ toàn cầu xuất sắc).<ref name="People2" /> Knowles cũng trở thành người nghệ sĩ, người mẫu không chuyên đầu tiên được xuất hiện trên bìa của tạp chí [[Sports Illustrated]] ấn phẩm đặc biệt năm [[2007]].
 
=== 2008–10: ''I Am... Sasha Fierce'' và điện ảnh ===
Dòng 119:
Vào ngày [[10 tháng 2]] năm [[2008]], Knowles biểu diễn cùng với một trong những nghệ sĩ có tầm ảnh hưởng lớn với cô, [[Tina Turner]] tại lễ trao giải [[Giải Grammy|Grammy]] lần thứ 50. Hai người đã hát ca khúc "[[Proud Mary]]", một trong những bài hát nổi tiếng của [[Tina Turner]], và nhận được nhiều lời khen từ giới báo chí. Năm [[2008]], Knowles, cùng với những ca sĩ nổi tiếng là [[Mariah Carey]], [[Leona Lewis]], [[Rihanna]], [[Leann Rimes]], [[Miley Cyrus]] và [[Mary J. Blige]] cùng thu âm bài hát ''[[Just Stand Up!]]'', cho quỹ từ thiện ''Stand Up to Cancer''. Đồng thời, cô cũng cho ra mắt album thứ ba của mình, ''[[I Am... Sasha Fierce|I Am… Sasha Fierce]]'', vào [[tháng mười một|tháng 11]] năm [[2008]].
 
Knowles phát hành album thứ ba của cô, ''[[I Am... Sasha Fierce|I Am… Sasha Fierce]]'', vào [[18 tháng 11]] năm [[2008]].<ref>{{Chú thích web|url=http://www.mtv.com/news/articles/1596573/20081008/knowles_beyonce.jhtml |lasthọ 1=Vineyard |firsttên 1=Jennifer |tiêu đề=Beyonce Releases Two Tracks From ''I Am...'', Inspired By Jay-Z And Etta James |ngày truy cập=8 tháng 10 năm 2008 |ngày=8 tháng 10 năm 2008 |nhà xuất bản=MTV.com}}</ref> Knowles nói rằng tên ''Sasha Fierce'' là tên nghệ danh của cô đã dùng khi cô biểu diễn trên sân khấu.<ref name="PCOLSashafierce">{{Chú thích web|url=http://www.telegraph.co.uk/culture/music/3563004/Beyonce-dream-girl.html |work=The Telegraph |tiêu đề=Beyoncé: dream girl |ngày=11 tháng 8 năm 2008}}</ref> Album được biết trước với việc phát hành hai đĩa đơn của nó, "[[If I Were a Boy]]" và "[[Single Ladies (Put a Ring on It)]]".<ref>{{Chú thích web|url=http://hollywoodteenzine.com/index.php?option=com_content&task=view&id=123&Itemid=51 |tiêu đề=New Beyonce Album Set for Release on Tuesday, November 18 |ngày=18/9/2008}}</ref><ref>{{Chú thích web|firsttên 1=Jonathan |lasthọ 1=Cohen |url=http://www.billboard.com/bbcom/news/article_display.jsp?vnu_content_id=1003847270 |tiêu đề=New Beyonce Album Arriving In November |work=Billboard |ngày truy cập=9 tháng 9 năm 2008}}</ref> Trong khi ''[[If I Were A Boy]]'' đứng đầu các bảng xếp hạng trên toàn thế giới, chủ yếu là ở các nước [[châu Âu]], ''[[Single Ladies (Put a Ring on It)]]'' đạt vị trí quán quân trong bảng xếp hạng ''Billboard Hot 100'' tại [[Hoa Kỳ]], trở thành đĩa đơn quán quân thứ 5 trong sự nghiệp solo của Knowles và giúp cô trở thành nữ nghệ sĩ với nhiều đĩa đơn quán quân nhất của thập kỷ (danh hiệu này được chia sẻ với [[Rihanna]]).
 
Knowles xuất hiện trong bộ phim âm nhạc về cuộc đời của một nhân vật có thật, ''[[Cadillac Records]]'',<ref>{{Chú thích web|url=http://www.youtube.com/watch?v=YpwDbsNuMtc |tiêu đề=Rodney Jerkins at Clive Davis' Pre-Grammy Party |work=Rap-Up TV |ngày=10 tháng 2 năm 2008 |ngày truy cập=15 tháng 2 năm 2008}}</ref> trong đó Knowles đã được đóng vai ca sĩ [[blues]] nổi tiếng [[Etta James]]. Diễn xuất của cô trong phim đã nhận được lời khen ngợi từ các nhà phê bình<ref>{{chú thích báo|url=http://www.news.com.au/dailytelegraph/story/0,22049,25320588-5009160,00.html |title=Is Beyonce beyond her best? |last=Masterson |first=Lawrie |date=12 tháng 4 năm 2009 |work=Daily Telegraph |accessdate=13 tháng 4 năm 2009}}</ref> và bài hát "[[Once in a Lifetime]]", một sự hợp tác với [[Scott McFarnon]], được đề cử [[giải Grammy]] và một giải [[Giải Quả cầu vàng|Quả cầu vàng]]. Knowles cũng đóng vai chính đối diện [[Ali Larter]] và [[Idris Elba]] trong một bộ phim phim kinh dị gọi là ''[[Obsessed (2009 phim)|Obsessed]]'', được sản xuất từ [[tháng năm|tháng 5]] năm [[2008]]. Bộ phim đã chứng tỏ là một thành công thương mại và đã được phát hành tại [[Hoa Kỳ]] ngày [[24 tháng 4]] năm [[2009]], bộ phim thu về 11,1 triệu đô la vào ngày đầu tiên phát hành<ref name="BOM">{{Chú thích web|url=http://www.boxofficemojo.com/news/?id=2580&p=.htm |tiêu đề=Box Office Mojo}}</ref> và kết thúc cuối tuần của mình ở vị trí số một, với tổng số là 28,6 triệu đô la.<ref name="BOM" /> Tuy vậy, cô bị đề cử 1 [[Giải Mâm xôi vàng cho diễn viên nữ chính tồi nhất]].
 
"[[Halo (Beyoncé Knowles hát)|Halo]]", đĩa đơn thứ tư của album, đạt vị trí thứ 5 trong bảng xếp hạng này và là đĩa đơn tốp 10 thứ 12 của Knowles, đưa cô thành nữ nghệ sĩ với nhiều đĩa đơn tốp 10 nhất của thập kỷ.<ref name="Chart" /><ref name="Flo" /> Cô cũng là nữ nghệ sĩ với những tuần tích lũy lớn nhất ở vị trí số một trong thập kỷ này, với tổng số 36 tuần tại vị trí số một, 5 lần đứng nhất và 13 lần nằm trong top 10 trong thập kỷ qua,<ref name="Chart">{{Chú thích web|url=http://www.billboard.com/bbcom/chart-beat-bonus/chart-beat-depeche-mode-pet-shop-boys-oak-1003968257.story |tiêu đề=Chart Beat: Depeche Mode, Pet Shop Boys, Oak Ridge Boys, Hannah Montana |ngày=30 tháng 4 năm 2009|archiveurlurl lưu trữ =http://web.archive.org/web/20090504135405/http://www.billboard.com/bbcom/chart-beat-bonus/chart-beat-depeche-mode-pet-shop-boys-oak-1003968257.story|archivedatengày lưu trữ=4/5/2009}}</ref><ref name="Flo">{{Chú thích web|url=http://www.billboard.com/news/flo-rida-has-sweet-week-on-billboard-hot-1003968285.story#/news/flo-rida-has-sweet-week-on-billboard-hot-1003968285.story |tiêu đề=Flo Rida Has Sweet Week On Billboard Hot 100 |ngày=30 tháng 4 năm 2009}}</ref> cũng như trên hầu hết 40 hit của thập kỷ với 18 lần đứng đầu trong 40 hit.<ref>[http://www.billboard.com/column/chartbeat/chart-beat-thursday-whitney-houston-black-1003998991.story#/column/chartbeat/chart-beat-thursday-whitney-houston-black-1003998991.story Chart Beat Thursday: Whitney Houston, Black Eyed Peas, Demi Lovato]. (07-30-2009). ''Billboard''. Truy cập 07-31-2009.</ref>
 
Knowles thắng giải ''Nữ nghệ sĩ xuất sắc'' tại lễ trao giải NAACP Image Awards.<ref>{{chú thích báo|url=http://www.cbc.ca/arts/story/2009/02/13/image-winners.html |title=Hudson tops winners at NAACP Image Awards |date=13 tháng 2 năm 2009 |publisher=CBC |accessdate=15 tháng 2 năm 2009}}</ref> Cô cũng đoạt giải ''Best R&B Artist (Nghệ sĩ R&B xuất sắc)'' tại lễ trao giải ''Teen Choice Awards 2009''. Tại Lễ Nhậm Chức của [[Tổng thống Hoa Kỳ]] [[Barack Obama]], Knowles biểu diễn bài hát "''[[America the Beautiful]]''" trong lễ khai mạc và bài hát "''[[At Last]]''" hát lại của [[Etta James]] trong lúc Tổng thống Hoa Kỳ Obama và vợ Michelle Obama nhảy điệu nhảy đầu tiên vào ngày [[20 tháng 1]] năm [[2009]].
Dòng 131:
[[Tập tin:BeyoncéKnowlesAAFeb09.jpg|nhỏ|trái|200px|Knowles tại giải Oscar lần 81 vào tháng 2 năm 2009.]]
 
Video của đĩa đơn "''[[Single Ladies (Put a Ring on It)]]''" chiến thắng giải thưởng ''BET Awards'' cho Video của năm. Thêm vào đó, video này còn nhận được 9 đề cử trong năm [[2009]] MTV Video Music Awards và chiến thắng 3 giải trong đó có giải thưởng ''Video của năm''. Video này đánh mất giải thưởng ''Video xuất sắc của nữ nghệ sĩ'' vào tay của [[Taylor Swift]] với video "''[[You Belong with Me|You Belong With Me]]''", sự việc dẫn đến tranh cãi khi [[Kanye West]] ngắt lời [[Taylor Swift]] trong lúc nhận giải và tuyên bố rằng "Beyoncé có video hay nhất của mọi thời đại!". Đến cuối buổi lễ trao giải, khi Knowles lên nhận giải thưởng cho Video của năm, cô nói ''"Khi tôi 17 tuổi, cùng với Destiny's Child chúng tôi chiến thắng giải thưởng MTV đầu tiên. Đó là một giây phút thật tuyện vời với tôi. Vì vậy, tôi mời Taylor bước ra sân khấu và có được giây phút của riêng mình."'' Cô mời Swift ra sân khấu và Swift hoàn tất diễn văn nhận giải của mình.<ref name="rollingstone.com">{{Chú thích web|tiêu đề=Kanye West Storms the VMAs Stage During Taylor Swift's Speech|ngày=13 tháng 9 năm 2009|work=Rolling Stone|ngày truy cập=13 tháng 9 năm 2009|url=http://www.rollingstone.com/music/news/kanye-west-storms-the-vmas-stage-during-taylor-swifts-speech-20090913?rand=84857}}</ref><ref name="latimes.com">{{Chú thích web|firsttên 1=Ann|lasthọ 1=Powers|tiêu đề=Beyonce and Taylor Swift: Sisterhood is powerful, especially when male-directed|ngày=14 tháng 9 năm 2009|ngày truy cập=21 tháng 11 năm 2011|work=Los Angeles Times|url=http://latimesblogs.latimes.com/music_blog/2009/09/beyonce-and-taylor-swift-sisterhood-is-powerful-especially-when-maledirected.html}}</ref><ref name="Cnn.com">{{chú thích báo|first=Lisa|last=Respers|title=Anger over West's disruption at MTV awards|date=14 tháng 9 năm 2009|accessdate=15 tháng 9 năm 2009|publisher=CNN|url=http://edition.cnn.com/2009/SHOWBIZ/09/14/kanye.west.reaction/index.html}}</ref><ref name="MTV">{{Chú thích web|tiêu đề=Adam Lambert, Donald Trump, Joe Jackson Slam Kanye West's VMA Stunt|ngày=13 tháng 9 năm 2009|nhà xuất bản=MTV|ngày truy cập=13 tháng 9 năm 2009|url=http://www.mtv.com/news/articles/.../swift__taylor.jhtml}}</ref> Vào [[tháng mười|tháng 10]] năm [[2009]], cô được tạp chí ''Billboard'' trao giải thưởng ''Người phụ nữ của năm''.<ref name="billboardaward">{{Chú thích web| url=http://www.billboard.com/#/news/beyonce-accepts-billboard-s-woman-of-the-1004018301.story| tiêu đề=Beyonce Accepts Billboard's Woman Of the Year Award, Lady Gaga Is Rising Star| work=Billboard| nhà xuất bản=Nielsen Business Media, Inc| authortác giả 1=Concepcion, Mariel| ngày=2 tháng 10 năm 2009| ngày truy cập=3 tháng 10 năm 2009}}</ref> Chấp nhận giải thưởng, Knowles nhận xét: "Tôi là người phụ nữ may mắn nhất trên thế giới.".<ref name="billboardaward"/> Trong [[tháng mười một|tháng 11]] năm [[2009]], Knowles đã được công bố như là người chiến thắng 'World's Greatest Popstars' của [[4Music]] của [[Vương quốc Anh]] được tài trợ bởi [[Rimmel]]. Hơn 100.000 lá phiếu, với Knowles đứng ở vị trí cao với những lá phiếu công khai, thậm chí còn đứng trước cả [[Madonna (ca sĩ)|Madonna]], [[Britney Spears]], [[Eminem]] và [[Pink]].<ref>{{Chú thích web|url=http://www.4music.com/article/4music/world-s-greatest-popstars.html |tiêu đề=World's Greatest Popstars |nhà xuất bản=4Music |ngày=29 tháng 8 năm 2009 |ngày truy cập=31 tháng 12 năm 2009}}</ref> Knowles tham gia vào "[[Hope for Haiti Now: A Global Benefit for Earthquake Relief]]". Cô xuất hiện tại Luân Đôn với [[Jay-Z]], [[Rihanna]], và [[U2 Bono]] và [[The Edge]], cô đã thực hiện một phiên bản khác của bài hát "Halo" của cô.<ref>[http://www.rap-up.com/2010/01/20/beyonce-added-to-haiti-telethon/ Rap-Up.com || Beyoncé Added to Haiti Telethon<!-- Bot generated title -->]</ref> Knowles đã đứng đầu giải Grammy lần thứ 52, nhận được 10 đề cử, bao gồm [[Giải Grammy cho Album của năm|Album của năm]] cho ''[[I Am... Sasha Fierce|I Am… Sasha Fierce]]'', [[Giải Grammy cho Thu âm của năm|Giải Grammy cho Thu âm của Năm]] cho "Halo", và [[Giải Grammy cho Bài hát của năm|Bài hát của năm]] cho "Single Ladies (Put a Ring on It)"; cuối cùng cô giành được giải thưởng Bài hát của Năm cho "Single Ladies (Put a Ring on It)" trong số này.<ref>{{chú thích báo|url=http://www.billboard.com/#/news/beyonce-taylor-swift-peas-lead-grammy-award-1004050379.story|title=Beyonce, Taylor Swift, Peas Lead Grammy Award Nominations|last=Donahue|first=Ann|date=2 tháng 12 năm 2009|work=Billboard|publisher=Nielsen Business Media, Inc|accessdate=3 tháng 12 năm 2009}}</ref> Knowles đã lập một kỷ lục cho số các giải thưởng Grammy được đoạt trong một đêm duy nhất của một nghệ sĩ nữ vào [[31 tháng 1]] năm [[2010]], khi cô đã mang về nhà sáu giải thưởng từ mười đề cử của mình.<ref>{{Chú thích web|url=http://wonderwall.msn.com/music/2010-grammy-awards-red-carpet-6478.gallery?gt1=28135#wallState=0__/movies/beyonce-breaks-grammy-record-1536054.story|tiêu đề=Beyonce breaks Grammy record|nhà xuất bản=MSN|ngày truy cập=February 5th, 2010}}</ref> Hai tuần cuối cùng của ngày biểu diễn cho "[[I Am... Tour]]" đã diễn ra trong [[tháng hai|tháng 2]] năm [[2010]] tại [[Nam Mỹ]] và [[Vùng Caribe|Caribê]].<ref>[http://www.rap-up.com/2010/02/26/beyonce-sasha-fierce-is-done/ Rap-Up.com || Beyoncé: ‘Sasha Fierce Is Done!’<!-- Bot generated title -->]</ref>
 
=== 2011–15: ''4'' và ''BEYONCÉ'' ===
Dòng 137:
Vào tháng Giêng 2010, Knowles được thực hiện một buổi phỏng vấn cùng ''[[USA Today]]'' và tuyên bố rằng cô sẽ nghỉ ngơi vào năm 2010. Cô nói "đương nhiên tôi sẽ phải nghỉ một chút, để có thể nạp lại năng lượng...Như trong sáu tháng qua tôi đã không đến phòng thu để làm việc. Tôi muốn sống cuộc sống của tôi, và sau đó tôi có thể tìm được nguồn cảm hứng."<ref>{{chú thích báo|last=Gardner |first=Elysa |url=http://www.usatoday.com/life/music/news/2010-01-11-beyonce_N.htm |title=Beyonce is poised to take a well-deserved break in 2010 |work=[[USA Today]] |date = ngày 28 tháng 1 năm 2010 |accessdate = ngày 16 tháng 6 năm 2010}}</ref> Trong thời gian này, chương trình ''[[60 Minutes]]'' đã trình chiếu những hình ảnh khi cô học tại nhà khi vẫn còn bé và cầu nguyện trước mỗi buổi diễn.<ref>{{chú thích báo|url=http://www.cbsnews.com/stories/2010/01/28/60minutes/main6151266.shtml |title=How Gradual Success Helped Beyoncé |work=CBS News |date=ngày 31 tháng 1 năm 2010 |accessdate = ngày 7 tháng 4 năm 2010}}</ref> Vào tháng 2 năm 2010, cô kết hợp cùng ca khúc của ca sĩ [[Lady Gaga]], "[[Telephone (bài hát)|Telephone]]". Ca khúc vươn lên vị trí quán quân ở bảng xếp hạng [[Mainstream Top 40 (Pop Songs)|Pop Songs]] tại Mĩ, trở thành ca khúc quán quân thứ sáu của Knowles và Gaga. Nhờ thế mà họ đã đánh [[Mariah Carey]] cho ca khúc quán quân nhiều nhất trên các bảng xếp hạng kể từ khi xuất hiện Bảng xếp hạng 40 ca khúc của [[Nielsen Broadcast Data Systems|Nielsen BDS-based]] trên các đài phát thanh năm 1992.<ref>{{chú thích báo|url=http://www.billboard.com/news/lady-gaga-beyonce-match-mariah-s-record-1004075160.story|title=Lady Gaga, Beyoncé Match Mariah's Record |date = ngày 15 tháng 3 năm 2010 |accessdate = ngày 18 tháng 3 năm 2010 |work=Billboard|publisher=Nielsen Business Media, Inc|last=Trust|first=Gary}}</ref> Ca khúc nhận được đề cử giải [[Giải Grammy|Grammy]] cho [[Grammy Award for Best Pop Collaboration with Vocals|Best Pop Collaboration with Vocals]] tại giải [[giải Grammy lần thứ 53|53rd Grammy Awards]].<ref>{{chú thích báo|url=http://www.usatoday.com/life/music/awards/grammys/2010-12-01-grammy-nominations-list_N.htm?loc=interstitialskip|title=2010 Grammy Award Nominations|work=USA Today |accessdate = ngày 2 tháng 12 năm 2010}}</ref>
 
Vào tháng 11 năm 2010, Knowles tiết lộ rằng cô đang trong kế hoạch thực hiện album thứ tư của mình mang tên ''[[4 (album của Beyoncé Knowles)|4]]'', và đang viết và sản xuất một thể loại âm nhạc.<ref>{{Chú thích web|lasthọ 1=Weiner |firsttên 1=David |url=http://www.etonline.com/music/102987_ET_Exclusive_Beyonce_Strives_to_Create_Own_Genre_of_Music/ |tiêu đề=ET Exclusive: Beyonce Strives to Create 'Own Genre of Music' |work=[[Entertainment Weekly]] |nhà xuất bản=CBS Studios Inc |ngày = ngày 18 tháng 11 năm 2010 |ngày truy cập = ngày 9 tháng 1 năm 2011}}</ref> Cô nói rằng cô dùng cuộc sống của cô để có thể tạo nên chất liệu nhạc riêng của cô. Sau đó, Knowles nói tiếp rằng "Tôi sẽ không nói rằng tôi sẽ phát minh ra một thể loại âm nhạc mới...Tôi chỉ hòa trộn những thể loại nhạc mà tôi thích và đầy cảm hứng từ nhiều thể loại khác nhau. Đó không phải là [[Rhythm and blues|R&B]]. Đó không đơn thuần là [[Pop]]. Đó không phải là [[Rock]]. Đó chính là những gì tôi yêu thích và tạo nên một hỗn hợp âm nhạc."<ref name="Beyonce I Am DVD screening">{{Chú thích web|lasthọ 1=Vena |firsttên 1=Jocelyn |url=http://www.mtv.com/news/articles/1652928/beyonce-inspired-by-michael-jackson-lauryn-hill-new-album.jhtml |tiêu đề=Beyonce Inspired by Michael Jackson, Lauryn Hill for New Album |work=[[MTV News]] |nhà xuất bản=MTV Networks |ngày = ngày 23 tháng 11 năm 2010 |ngày truy cập = ngày 24 tháng 11 năm 2010}}</ref> Knowles tiết lộ thêm album sẽ lấy cảm hứng từ vài nghệ sĩ như [[Fela Kuti]], [[The Stylistics]], [[Lauryn Hill]], [[Stevie Wonder]] và [[Michael Jackson]].<ref name="Beyonce I Am DVD screening"/> Những nhà sản xuất và nhạc sĩ thực hiện album gồm [[Jim Jonsin]],<ref>{{Chú thích web|url=http://www.rap-up.com/2010/05/04/beyonce-already-working-on-new-album/ |tiêu đề=Beyonce Already Working on New Album? |work=[[Rap-Up]] |ngày = ngày 4 tháng 5 năm 2010 |ngày truy cập = ngày 9 tháng 1 năm 2011}}</ref> [[Ne-Yo]],<ref>{{Chú thích web|lasthọ 1=Vena |firsttên 1=Jocelyn |url=http://www.mtv.com/news/articles/1648430/beyonce-has-agenda-new-album-neyo.jhtml |tiêu đề=Beyonce Has An 'Agenda' For New Album, Ne-Yo Says |work=MTV News |nhà xuất bản=MTV Networks |ngày = ngày 22 tháng 9 năm 2010 |ngày truy cập = ngày 9 tháng 1 năm 2011}}</ref> [[Sean Garrett]],<ref>{{Chú thích web|lasthọ 1=James |firsttên 1=Amber |url=http://www.popeater.com/2010/09/17/beyonce-album-sean-garrett/ |tiêu đề=Beyonce Working on 'Biggest Album Ever' |work=Pop Eater |ngày = ngày 17 tháng 9 năm 2010 |ngày truy cập = ngày 9 tháng 1 năm 2011}}</ref> [[The-Dream|The Dream]], [[Strange Fruit Project|Symbolyc One]],<ref>{{Chú thích web|lasthọ 1=Montgomery |firsttên 1=James |url=http://www.mtv.com/news/articles/1655794/beyonce-working-with-kanye-west-producer-s1.jhtml |tiêu đề=Beyonce Working With Kanye West Producer S1 |work=MTV News |nhà xuất bản=MTV Networks |ngày = ngày 12 tháng 1 năm 2011 |ngày truy cập = ngày 13 tháng 1 năm 2011}}</ref> [[Diplo (DJ)|Diplo]], [[Switch (DJ)|Switch]], [[Sleigh Bells|Derek Miller]]<ref>{{Chú thích web|url=http://www.rap-up.com/2011/01/24/beyonce-calls-on-mia-hitmaker-diplo-for-new-album/ |tiêu đề=Beyonce Calls on M.I.A. Hitmaker Diplo for New album |work=Rap-Up |ngày = ngày 24 tháng 1 năm 2011 |ngày truy cập = ngày 25 tháng 1 năm 2011}}</ref> and [[OFWGKTA|Frank Ocean]].<ref>{{Chú thích web|url=http://www.rap-up.com/2011/03/12/beyonce-dives-into-studio-with-frank-ocean/ |tiêu đề=Beyonce Dives Into Studio with Frank Ocean |work=Rap-Up |ngày = ngày 12 tháng 3 năm 2011 |ngày truy cập = ngày 13 tháng 3 năm 2011}}</ref> ''4'' sẽ được phát hành chính thức vào ngày 28 tháng 6 năm 2011.<ref>{{cite press release |url=http://www.prnewswire.com/news-releases/beyonces-new-album-4-to-be-released-on-tuesday-june-28-122202969.html |title=Beyonce's New Album "4" To Be Released on Tuesday, June 28 |publisher=[[Columbia Records]] |location=New York |date=ngày 18 tháng 5 năm 2011}}</ref> Album đã phát hành đĩa đơn đầu tiên là "[[Run the World (Girls)]]" được phát hành vào ngày 21 tháng 4 năm 2011.<ref name="begins">{{Chú thích web|url=http://www.mtv.com/news/articles/1662415/beyonce-run-the-world-girls-single.jhtml |tiêu đề=Beyonce Drops Official Version Of 'Run The World (Girls)' |work=[[MTV]] |ngày=ngày 21 tháng 4 năm 2011 |ngày truy cập=ngày 21 tháng 4 năm 2011}}</ref>
 
Bên cạnh đó, Knowles cho biết cô sẽ trở lại với sự nghiệp điện ảnh trong bộ phim làm lại từ ''[[A Star Is Born (Phim năm 2012)|A Star Is Born]]'', người sẽ đạo diễn và sản xuất là [[Clint Eastwood]] cùng hãng [[Warner Bros.]] Bộ phim được làm lại từ [[A Star Is Born (Phim năm 1976)|Bản năm 1976]] của [[Barbra Streisand]] và [[Kris Kristofferson]].<ref>{{Chú thích web|lasthọ 1=Warner |firsttên 1=Kara |url=http://www.mtv.com/news/articles/1656365/beyonce-star-clint-eastwoods-star-born-remake.jhtml |tiêu đề=Beyonce To Star In Clint Eastwood's 'A Star Is Born' Remake |work=MTV News |nhà xuất bản=MTV Networks |ngày = ngày 20 tháng 1 năm 2011 |ngày truy cập = ngày 21 tháng 1 năm 2011}}</ref> Vào tháng 2 năm 2011, một nguồn tin đã khẳng định Knowles sẽ biểu diễn tại [[Glastonbury Festival]] 2011, cô sẽ trình diễn các tiết mục gồm 90 phút tại sân khấu vào ngày 26 tháng 6 năm 2011.<ref>{{chú thích báo|url=http://www.prnewswire.com/news-releases/beyonce-to-headline-glastonbury-festival-115756999.html |title=Beyonce to Headline Glastonbury Festival – NEW YORK, Feb. 10, 2011 |work=[[PR Newswire]] |publisher=PR Newswire Association LLC. |date = ngày 10 tháng 2 năm 2011 |accessdate = ngày 12 tháng 2 năm 2011}}</ref> Cô cùng sẽ trình diễn tại [[Oxegen|Oxegen Festival]] ở Ireland, và [[T in the Park]] Festival ở Scotland vào tháng 7 năm 2011.<ref>{{chú thích báo|url=http://www.bbc.co.uk/news/uk-northern-ireland-13294152 |title=BBC News - Beyonce to play Oxegen festival at Punchestown |publisher=[[BBC|BBC News]] |date=ngày 5 tháng 5 năm 2011 |accessdate=ngày 5 tháng 5 năm 2011}}</ref> Trong một vài tài liệu cho biết cô đã nhận 1 triệu đô-la từ [[Muammar al-Gaddafi|Muammar Gaddafi]] trong gia đình tổng thống Libya trong các buổi diễn.<ref>{{Chú thích web|lasthọ 1=Knopper |firsttên 1=Steve |url=http://www.rollingstone.com/music/news/industry-lashes-out-at-mariah-beyonce-and-others-who-played-for-qaddafis-family-20110225 |tiêu đề=Industry Lashes out at Mariah Carey, Beyonce and Others Who Played For Qaddafis Fammily |work=Rolling Stones |ngày = ngày 25 tháng 2 năm 2011 |archiveurlurl lưu trữ=http://www.webcitation.org/5wwRIStQE |archivedatengày lưu trữ = ngày 5 tháng 3 năm 2011 |ngày truy cập = ngày 5 tháng 3 năm 2011}}</ref> Sau đó, một người đã tiết lộ Knowles đã gửi tiền số tiền ấy ủng hộ cho quỹ [[Clinton Bush Haiti Fund]], để trợ giúp cho các đồng bào [[Động đất Haiti 2010]].<ref>{{chú thích báo|last=Kaufman |first=Gil |url=http://www.mtv.com/news/articles/1659097/beyonce-gadhafi-donation.jhtml |title=Beyonce Donated Gadhafi Money To Haiti Relief Last Year |work=MTV News |publisher=MTV Networks |date = ngày 3 tháng 3 năm 2011 |accessdate = ngày 5 tháng 3 năm 2011}}</ref> Vào 28 tháng 3 năm 2011, các thông tin đã tuyên bố rằng Knowles đã không còn được quản lý bởi cha cô Mathew Knowles, vì một số lý do cá nhân chưa tiết lộ.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.rap-up.com/2011/03/28/beyonce-cuts-management-ties-with-father/ |tiêu đề=Beyonce Cuts Management Ties with Father |nhà xuất bản=Rap-Up |ngày = ngày 28 tháng 3 năm 2011 |ngày truy cập = ngày 29 tháng 3 năm 2011}}</ref>
Hiện nay Beyoncé cũng là một danh ca thành công nhất trong dòng nhạc Pop
 
Dòng 156:
Ngày 23 tháng 4 năm 2016, ''Lemonade'' được phát hành. Không giống như người tiền nhiệm với từng video ca nhạc riêng biệt cho mỗi bài hát, ''Lemonade'' được quảng bá bằng một bộ phim một giờ, phát sóng trên [[HBO]]. Album là tập hợp của nhiều thể loại âm nhạc khác nhau, như [[Nhạc pop|pop]], [[R&B đương đại|R&B]], [[blues]], [[Nhạc rock|rock]], [[Nhạc hip hop|hip hop]], [[Nhạc soul|soul]], funk, [[Nhạc đồng quê|đồng quê]], [[Nhạc phúc âm|phúc âm]] và trap, với sự tham gia góp giọng của James Blake, [[Kendrick Lamar]], [[The Weeknd]] và Jack White. Album được ra mắt lần đầu tiên dưới hình thức [[Streaming|online streaming]] vào ngày 23 tháng 4 thông qua [[Tidal]].
 
''[[Lemonade (album của Beyoncé)|Lemonade]]'' ra mắt tại vị trí số một trên bảng xếp hạng [[Billboard 200|''Billboard'' 200]], với 485.000 bản được tiêu thụ trong tuần đầu phát hành (653.000 bản sau khi kết hợp với lượng nghe trực tuyến và các giao dịch trực tuyến liên quan đến bài hát trong album), trở thành album quán quân thứ sáu của Beyoncé tại Hoa Kỳ cũng như giúp cô trở thành nghệ sĩ đầu tiên trong lịch sử bảng xếp hạng đạt được thành tích này. Ngoài ra, trong cùng một tuần, Beyoncé đã trở thành nghệ sĩ nữ đầu tiên có nhiều bài hát lọt vào bảng xếp hạng [[Billboard Hot 100|''Billboard'' Hot 100]] cùng lúc nhất với cả 12 bài trong album. Từ tháng 4 đến tháng 10 năm 2016, Beyoncé thực hiện chuyến lưu diễn [[Formation World Tour|The Formation World Tour]] xuyên qua các quốc gia tại Bắc Mỹ và châu Âu để quảng bá album. Chuyến lưu diễn đạt thành công lớn về mặt thương mại khi thu về 256 triệu đô-la Mỹ, lọt vào danh sách doanh thu cao nhất mọi thời đại.<ref>{{Chú thích web|last1họ 1=Weddell|first1tên 1=Ray|tiêu đề=Beyonce's Formation Tour Sold Over 2 Million Tickets and Made Over $250 Million|url=http://www.billboard.com/articles/business/7541993/beyonce-formation-tour-2-million-tickets-250-million-dollars|website=Billboard|nhà xuất bản=Billboard|ngày truy cập=14 October 2016}}</ref> Tại [[Giải Grammy lần thứ 59]], Beyoncé nhận 9 đề cử, bao gồm "Album của năm" cho ''Lemonade'', "Thu âm của năm" và "Bài hát của năm" cho "Formation". Tuy nhiên cô chỉ thắng hai giải phụ là "Best Music Video" cho MV Formation và "Best Urban Contemporary album" cho Lemonade và tuột mất các giải quan trọng vào tay [[Adele]] Tại giải thưởng này cô đã trình diễn hai bài hát [[Love Drought]] và [[Sandcastles]]
 
== Đời tư ==
Dòng 167:
Năm 2002, Knowles đã có tình cảm với anh chàng nhạc rap [[Jay-Z]], khi cô song ca với anh trong bài "'03 Bonnie and Clyde".<ref name="People" /> Bất chấp những tin đồn dai dẳng về mối quan hệ của họ, họ vẫn giữ kín đáo về nó.<ref>{{Chú thích web|url=http://timesofindia.indiatimes.com/International_Buzz/Beyonce_keeps_em_guessing/articleshow/2847654.cms |tiêu đề=Beyonce keeps 'em guessing |work=[[The Times of India]] |ngày=9 tháng 3 năm 2008 |ngày truy cập=21 tháng 3 năm 2008}}</ref><ref>{{chú thích báo|last=Aswad |first=Jem |title=Jay-Z And Beyonce Take Out Marriage License: Reports |url=http://www.mtv.com/news/articles/1584612/20080401/jay_z.jhtml |work=MTV News |date=2 tháng 4 năm 2008 |accessdate=3 tháng 4 năm 2008}}</ref> Trong năm 2005, dư luận bắt đầu xôn xao về chuyện đám cưới bí mật của họ, nhưng hai người vẫn luôn luôn kín miệng trước những câu hỏi này.<ref name="Vineyard">{{chú thích báo|last=Vineyard |first=Jennifer |title=Beyonce Shoots Down Jay-Z Marriage Rumors In Vanity Fair Interview |url=http://www.mtv.com/news/articles/1510890/20051004/knowles_beyonce.jhtml |work=MTV News |date=4 tháng 10 năm 2005 |accessdate=5 tháng 4 năm 2008}}</ref>
 
Vào ngày 4 tháng 4 năm 2008, Knowles và Jay-Z đã kết hôn ở thành phố New York<ref>{{chú thích báo|last=Helling |first=Steve |title=Beyoncé and Jay-Z File Signed Marriage License |url=http://www.people.com/people/article/0,,20194030,00.html |work=People |date=22 tháng 4 năm 2008 |accessdate=23 tháng 4 năm 2008}}</ref>. Knowles giấu chiếc nhẫn cưới và không công bố tin hôn nhân của mình, cho đến buổi hòa nhạc Fashion Rocks vào ngày 5 tháng 9 năm 2008 tại New York <ref>{{chú thích tạp chí|title=Beyoncé's ring revealed! |journal=People magazine |volume=70 |issue=12 |date=ngày 22 tháng 9 năm 2008|page=26}}</ref>. Trước khi họ cưới nhau, Knowles và Jay-Z đã được tạp chí TIME liệt kê vào danh sách những cặp đôi quyền lực nhất trong 100 người có ảnh hưởng nhất của năm 2006 (''Most Powerful Couple'' / ''Time 100 Most Influential people of 2006'') <ref>{{chú thích báo|url=http://www.smh.com.au/news/entertainment/people/beyonce-jayz-the-richest-pair/2008/11/22/1226770800770.html |title=Beyonce, Jay-Z the richest pair |work=The Sydney Morning Herald |accessdate=ngày 11 tháng 1 năm 2011}}</ref>. Trong tháng 1 năm 2009, Forbes xếp họ như là cặp đôi có thu nhập hàng đầu của Hollywood, với tổng cộng 162 triệu $.<ref name="Powerful couple">{{Chú thích web|lasthọ 1=Kaufman |firsttên 1=Gil |url=http://www.mtv.com/news/articles/1629585/jayz-beyonce-named-topearning-couple-entertainment.jhtml |tiêu đề=Jay-Z And Beyonce Named Top-Earning Couple In Entertainment |ngày=ngày 13 tháng 1 năm 2010 |ngày truy cập=ngày 11 tháng 1 năm 2011 |work=MTV News }}</ref>.
 
Ngày 07 tháng 1 năm 2012, Knowles đã sinh ra một con gái, đặt tên là [[Blue Ivy Carter]], tại Bệnh viện Lenox Hill ở New York <ref>{{Chú thích web|url=http://www.billboard.com/#/news/beyonce-gives-birth-to-a-baby-girl-1005758352.story|tiêu đề=Beyonce Gives Birth To a Baby Girl|work=Billboard|nhà xuất bản=Prometheus Global Media|ngày=ngày 8 tháng 1 năm 2012|ngày truy cập=ngày 8 tháng 1 năm 2012}}</ref>. Ngày 09 tháng 1 năm 2012, Jay-Z phát hành "Glory", một bài hát dành riêng cho con gái của họ, và công bố trên trang mạng xã hội LifeandTimes.com của mình.
Dòng 180:
 
=== Quảng cáo ===
Năm [[2002]], Knowles nhận một hợp đồng quảng cáo từ hãng nước giải khát [[Pepsi]],<ref>{{chú thích báo|title=Pepsi FAQs |url=<!--http://www.pepsi.com/help/faqs/faq.php?category=ads_and_history&page=highlights-->http://www.pepsi.com/faqs.php?section=highlights |work=Pepsi |accessdate=8 tháng 9 năm 2011}}<!--{{Failed verification|date=tháng 5 năm 2009}}--></ref> trong đó bao gồm quảng cáo xuất hiện trên truyền hình, cũng như các đài phát thanh và quảng cáo Internet. Cô đã giúp công ty tiếp cận người tiêu dùng nhiều hơn về nguồn gốc chủng tộc, văn hóa và bản sắc dân tộc.<ref>{{chú thích báo|last=Nat |first=Ives |title=Pepsi Switches To a New Voice Of a Generation |url=http://query.nytimes.com/gst/fullpage.html?res=9901E7D6153DF93BA25751C1A9649C8B63 |work=The New York Times |date=18 tháng 12 năm 2002 |accessdate=3 tháng 4 năm 2008}}</ref> Năm [[2004]], cô quay quảng cáo [[Pepsi]] cùng [[Britney Spears]], [[Pink]] và [[Enrique Iglesias]] vào vai các hiệp sĩ Hi Lạp cổ đại,<ref>{{chú thích báo|last=Jeckell |first=Barry |title=Pop Stars Clash in U.K. Pepsi Ad |url=http://music.yahoo.com/read/news/12178623 |work=Reuters |publisher=Yahoo |date=23 tháng 1 năm 2004 |accessdate=3 tháng 4 năm 2008}}</ref> vài năm sau cùng với [[Jennifer Lopez]] và cầu thủ [[David Beckham]] quay quảng cáo có tựa ''Samurai''.<ref>{{chú thích báo|title=For The Record: Quick News On Britney Spears, Paris Hilton, Sum 41, Lil' Kim, Gerald Levert, Morrissey & More |url=http://www.mtv.com/news/articles/1497582/20050228/spears_britney.jhtml |work=MTV News |date=28 tháng 2 năm 2005 |accessdate=3 tháng 4 năm 2008}}</ref> Hàng loạt các thoả thuận của Knowles về thương mại và sản phẩm cũng bao gồm các sản phẩm chăm sóc sắc đẹp và nước hoa. Cô đã làm việc với [[L'Oréal]] từ năm 18 tuổi,<ref>{{Chú thích web|url=http://www.billboard.com/#/features/beyonce-the-billboard-q-a-1004018346.story?page=3|tiêu đề=Beyonce: The Billboard Q&A|lasthọ 1=Mitchell|firsttên 1=Gail|ngày=2 tháng 10 năm 2009|work=Billboard|nhà xuất bản=Nielsen Business Media, Inc|ngày truy cập=8 tháng 10 năm 2009}}</ref> và ký kết các hợp đồng với các công ty mỹ phẩm trong năm [[2003]], thu nhập của cô khoảng 1 triệu đô la.<ref>{{chú thích báo|last=Susman |first=Gary |title=Bills, Bills, Bills |url=http://www.ew.com/ew/article/0,,443576,00.html |work=Entertainment Weekly |date=15 tháng 4 năm 2003 |accessdate=3 tháng 4 năm 2008}}</ref> Năm 2004, cô cũng quảng cáo cho hãng nước hoa True Star thuộc hãng [[Tommy Hilfiger]], Knowles cũng hát lại bài hát "[[Wishing on a Star]]" cho quảng cáo của hãng, mang về cho cô 250 nghìn đô la.<ref>{{chú thích báo|last=Jessen |first=Monique, et al. |title=Beyoncé Launches New True Star Fragrance |url=http://www.people.com/people/article/0,,656036,00.html |work=Entertainment Weekly |date=22 tháng 6 năm 2004 |accessdate=12 tháng 4 năm 2008}}</ref> Tiếp đó, cô cũng là đại sứ của sản phẩm True Star Gold thuộc hãng [[Tommy Hilfiger]] vào năm [[2005]] và hãng nước hoa cao cấp [[Emporio Armani's Diamonds]] vào năm [[2007]].<ref>{{chú thích báo|last=Givhan |first=Robin |title=The Aura of a Pinup: Beyoncé's Winning Image |url=http://www.washingtonpost.com/wp-dyn/content/article/2007/05/17/AR2007051702400.html |work=The Washington Post |date=18 tháng 5 năm 2007 |accessdate=3 tháng 4 năm 2008}}</ref> ''[[Forbes (tạp chí)|Forbes]]'' báo cáo rằng Knowles kiếm được 80 triệu đô la trong thời gian từ [[tháng sáu|tháng 6]] [[2007]] và [[tháng sáu|tháng 6]] [[2008]], kết hợp với album, tour diễn của cô, kinh doanh thời trang, và thoả thuận về quảng cáo.<ref>{{chú thích báo|url=http://www.forbes.com/lifestyle/2008/09/19/music-beyonce-timberlake-forbeslife-cx_lr_0922lifestyle.html |title=World's Best-Paid Music Stars |last=Rose |first=Lacey |date=22 tháng 9 năm 2008 |work=Forbes |accessdate=23 tháng 9 năm 2008}}</ref> Knowles đã đánh bại các "đối thủ" như Britney Spears, Miley Cyrus và "Anh em nhà Jonas" để chiếm vị trí đầu trong danh sách Các ngôi sao dưới 30 tuổi kiếm tiền nhiều nhất với hơn 87 triệu đôla thu nhập giữa năm [[2008]] và [[2009]]. Đặc biệt, tạp chí Forbes đã liệt kê Beyoncé đứng thứ tư trong danh sách ''Những người nổi tiếng có ảnh hưởng nhất thế giới''.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.forbes.com/lists/2009/53/celebrity-09_Beyonce-Knowles_YA72.html |tiêu đề=#4 Beyoncé Knowles |nhà xuất bản=Forbes |ngày=3 tháng 6 năm 2009 |ngày truy cập=4 tháng 6 năm 2009}}</ref>
 
===Nhân đạo===