Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Boeing B-17 Flying Fortress”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
→B-17 và Không quân Đức: AlphamaEditor, thêm/xóa ref, Executed time: 00:00:13.6444835 using AWB |
n clean up |
||
Dòng 22:
B-17 được Không lực Mỹ sử dụng chủ yếu trong các chiến dịch [[ném bom chiến lược]] chính xác ban ngày vào các mục tiêu công nghiệp, quân sự và dân sự của [[Đức Quốc xã|Đức]] trong [[Chiến tranh thế giới thứ hai|Thế Chiến II]]. Các đơn vị Mỹ là [[Không Lực 8]] đóng tại [[Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland|Anh]] và [[Không Lực 15]] đóng tại [[Ý]] góp phần bổ sung cho nhiệm vụ ném bom khu vực ban đêm của [[Bộ chỉ huy Không quân Ném bom]] thuộc [[Không quân Hoàng gia Anh]] trong [[chiến dịch Pointblank]], giúp đạt được ưu thế trên không trên các thành phố, nhà máy và chiến trường Tây Âu chuẩn bị cho [[Trận Normandie|Trận chiến Normandy]].<ref name="Carey Pointblank">{{chú thích tạp chí | last =Carey | first =Brian Todd | title =Operation Pointblank: Evolution of Allied Air Doctrine During World War II | journal =World War II | volume = | issue = tháng 11 | pages = trang 4 | publisher =|date =1998|url =http://www.historynet.com/air_sea/airborne_operations/3026416.html?page=4&c=y |accessdate =15 tháng 1 năm 2007}}</ref> B-17 cũng tham gia, với quy mô hạn chế hơn, tại [[Chiến tranh Thái Bình Dương|Mặt trận Thái Bình Dương]], không kích vào tàu bè và sân bay Nhật Bản.
Ngay từ trước chiến tranh, Không lực Mỹ (sau này là Không quân Hoa Kỳ) đã xem máy bay này là vũ khí chiến lược quan trọng có uy lực lớn, bay cao, ném bom tầm xa, có sức phá hủy lớn trong khi có khả năng tự phòng thủ, và nhất là khả năng quay về sân bay nhà cho dù hư hại nặng trong chiến đấu. Độ bền của nó, nhất là đáp bằng bụng và đáp trên mặt nước, nhanh chóng lan truyền như một huyền thoại.<ref name="Manual">{{chú thích sách |title= B-17 Pilot Training Manual |origdate= |url= http://www.stelzriede.com/ms/html/mshwpmn1.htm |accessdate= 16 tháng 1 năm 2007|edition= |date= |publisher= Headquarters, AAF, Office of Flying Safety |location= |isbn= |chapter= The Story of the B-17 |chapterurl= http://www.stelzriede.com/ms/html/mshwpmn1.htm#sty |quote= Khả năng phi thường của B-17 để chịu đựng — có thể quay về sân bay nhà với ba, hai, thậm chí một động cơ, bị bắn thủng lỗ chỗ bởi pháo phòng không và lỗ đạn, với những mảng lớn cánh và đuôi bị bắn rời — được công bố rộng rãi đến mức quân nhân Mỹ có thể [http://www.stelzriede.com/ms/photos/joke2.jpg khôi hài về nó]. Flying Fortress là một [http://www.stelzriede.com/ms/photos/joke.jpg một máy bay chắc chắn]}}</ref><ref name="browne">{{chú thích tạp chí | last =Browne | first = Robert W. | date = Winter 2001 | year = | title = The Rugged Fortress: Life-Saving B-17 Remembered | journal = Flight Journal: WW II Bombers | volume = | issue = Winter 2001| url = http://www.rccaraction.com/fj/articles/b-17/fortress_1.asp | accessdate =18 tháng 12 năm 2006}}</ref><ref name="Eaker">{{
| url = http://www.b17fortress.de/english/index.php |
|
== Thiết kế và phát triển ==
[[Tập tin:Boeing XB-17 (Model 299).jpg|phải|nhỏ|Kiểu 299 số hiệu ''NX13372'']]
[[Tập tin:Boeing XB-17 (Model 299) nose turret with gun.jpg|phải|nhỏ|Tháp súng mũi và súng máy trang bị cho chiếc nguyên mẫu.]]
Ngày [[8 tháng 8]] năm [[Hàng không năm 1934|1934]], [[Không lực Lục quân Hoa Kỳ]] (USAAC) mở thầu một kiểu máy bay ném bom nhiều động cơ nhằm thay thế cho chiếc [[Martin B-10]]. Các yêu cầu là nó phải mang được "tải trọng bom hữu ích" ở độ cao 3 km (10.000 ft) trong 10 giờ với tốc độ tối đa ít nhất là 322 km/h (200 dặm mỗi giờ).<ref name="Northstar">{{
|
Chiếc nguyên mẫu B-17, đặt tên '''Kiểu 299''', được thiết kế bởi một nhóm kỹ sư dưới sự lãnh đạo bởi E. Gifford Emery và [[Edward Curtis Wells]], được chế tạo bằng kinh phí riêng của [[Boeing]].<ref name="Goebel.299Dev"/> Nó kết hợp những tính năng của kiểu ném bom thử nghiệm [[Boeing XB-15]] và máy bay vận tải [[Boeing 247]].<ref name="Northstar"/> B-17 mang được đến 2.200 kg (4.800 lb) bom trên 2 giá trong khoang bom phía sau khoang lái và được trang bị năm súng máy 7,62 mm (0,30 inch), và gắn bốn động cơ [[Pratt & Whitney R-1690]] [[động cơ bố trí hình tròn|bố trí hình tròn]], mỗi chiếc có công suất 750 mã lực (600 kW) ở độ cao 2.130 m (7.000 ft).<ref name="Goebel.299Dev"/>
Dòng 39:
[[Tập tin:Boeing Model 299 crash.jpg|nhỏ|trái|Chiếc nguyên mẫu Kiểu 299 bị rơi]]
Công việc phát triển vẫn được tiếp tục trên chiếc Boeing Kiểu 299, nhưng vào ngày [[30 tháng 10]] năm [[Hàng không năm 1935|1935]], phi công thử nghiệm của Không lực là Thiếu tá [[Ployer Peter Hill]] cùng Leslie Tower của Boeing lái chiếc 299 trên chuyến bay đánh giá lần thứ hai. Đội bay quên nhả các "khóa gió" của máy bay, một thiết bị giữ những mặt phẳng điều khiển máy bay cố định tại chỗ khi máy bay đậu trên mặt đất; và khi cất cánh nó bị mất kiểm soát và rơi, giết chết Hill và Tower trong khi các quan sát viên khác bị thương.<ref name="Museum">{{
[[Tập tin:Boeing Y1B-17 in flight.jpg|phải|nhỏ|Chiếc Boeing Y1B-17 thử nghiệm đang bay.]]
Dòng 45:
Bất kể những việc ấy, Không lực Mỹ vẫn bị ấn tượng bởi tính năng bay của chiếc nguyên mẫu, nên vào ngày [[17 tháng 1]] năm [[Hàng không năm 1936|1936]], họ đã thông qua một kẽ hở pháp lý<ref name="Meilinger">{{chú thích tạp chí | last =Meilinger | first =Phillip S. | title =When the Fortress Went Down | journal =Air Force Magazine | volume =87 | issue =9 | pages = | publisher = Air Force Association |date= tháng 10 năm 2004 | url =http://www.afa.org/magazine/Oct2004/1004fort.asp | accessdate =16 tháng 1 năm 2007}}</ref> để đặt hàng 13 chiếc '''YB-17''' (sau tháng 11 năm [[Hàng không năm 1936|1936]] được đổi tên thành '''Y1B-17''') để thử nghiệm hoạt động thực tế. Chiếc YB-17 có những thay đổi đáng kể so với Kiểu 299, bao gồm động cơ [[Wright R-1820]]-39 Cyclone mạnh hơn thay cho kiểu Pratt & Whitneys ban đầu. Cho dù chiếc nguyên mẫu thuộc sở hữu của công ty và chưa bao giờ được gán một ký hiệu quân sự ("bản thân cái tên B-17 chỉ xuất hiện từ tháng 1 năm [[Hàng không năm 1936|1936]], gần ba tháng sau khi chiếc nguyên mẫu bị rơi "),<ref name="Bowers1976.p12">Bowers 1976, trang 12.</ref> cái tên "XB-17" được gán ngược lại cho khung máy bay này và được ghi vào sách vở để mô tả chiếc Flying Fortress đầu tiên cất cánh.
[[Tập tin:B-17s flyby Rex.jpg|nhỏ|trái|Chiếc B-17A đang bay ngang qua tàu hành khách ''Rex'' của Ý]]
Từ ngày [[1 tháng 3]] đến ngày [[4 tháng 8]] năm [[Hàng không năm 1937|1937]], 12 trong tổng số 13 chiếc YB-17 được giao cho Liên đội Ném bom 2 tại căn cứ [[Langley Field]], [[Virginia]], và được sử dụng trong việc phát triển các kỹ thuật ném bom hạng nặng cũng như tìm và sửa lỗi.<ref name="Northstar"/> Có một đề nghị về việc sử dụng một [[danh sách kiểm tra]] nhằm tránh những tai nạn như kiểu chiếc 299.<ref name="Meilinger"/><ref name="Checks2">{{
Chiếc YB-17 thứ 14 (số hiệu ''37-369''), ban đầu được chế tạo để thử nghiệm trên mặt đất về độ bền của khung máy bay, được nâng cấp và trang bị bộ turbo tăng áp vận hành bằng khí xả. Được lên kế hoạch để bay vào năm [[Hàng không năm 1937|1937]], nó gặp phải nhiều vấn đề về bộ turbo tăng áp nên chuyến bay đầu tiên bị hoãn đến [[29 tháng 4]] năm [[Hàng không năm 1938|1938]].<ref name="Donald">{{cite encyclopedia | editor = David Donald | encyclopedia =The Encyclopedia of World Aircraft | title = Boeing Model 299 (B-17 Flying Fortress) || edition = 1 | date = 1997|publisher = Prospero Books|location = Etobicoke, Ontario, Canada|isbn =1-85605-375-X|pages = trang 155}}</ref> Việc cải tiến làm Boeing tiêu tốn mất 100.000 đô la và mãi cho đến mùa Xuân năm [[Hàng không năm 1939|1939]] mới hoàn thành, nhưng mang lại kết quả là gia tăng trần bay và tốc độ tối đa.<ref name="Goebel.YB-17A">{{
|
Cuối năm [[Hàng không năm 1937|1937]], Không Lực đặt mua thêm mười chiếc ký hiệu '''B-17B''', và không lâu sau, 29 chiếc nữa, tất cả chỉ được giao xong vào giữa năm [[Hàng không năm 1939|1939]].<ref name="Goebel.YB-17A"/> Được cải tiến với cánh tà và cánh đuôi lớn hơn, mũi máy bay làm bằng kính [[kính Acrylic|Plexiglas]], những chiếc B-17B được giao thành năm lô nhỏ trong thời gian từ [[tháng bảy|tháng 7]] năm [[Hàng không năm 1939|1939]] đến [[tháng ba|tháng 3]] năm [[Hàng không năm 1940|1940]]. Nó được trang bị cho 2 phi đội ném bom, mỗi phi đội ở một bờ biển của lục địa Mỹ.<ref name="Goebel B-17B-D">{{
[[Tập tin:B-17B Bombers at March Field, California prior to 7 December 1941.jpg|phải|nhỏ|Những chiếc B-17B tại [[March Field]], California, trước cuộc tấn công vào [[Trân Châu Cảng]].]]
Dòng 62:
B-17 bắt đầu hoạt động trong [[Chiến tranh thế giới thứ hai|Thế Chiến II]] với [[Không quân Hoàng gia Anh]] từ năm [[Hàng không năm 1941|1941]], các đơn vị [[Không lực 8]] và [[Không lực 15]] của Không lực Lục quân Hoa Kỳ từ năm [[Hàng không năm 1942|1942]], và được dùng chủ yếu trong các chiến dịch [[ném bom chiến lược]] chính xác ban ngày các mục tiêu công nghiệp của [[Đức]]. [[Chiến dịch Pointblank]] (Điểm trắng) là những trận tấn công có định hướng chuẩn bị cho tấn công trên bộ.<ref name="Carey Pointblank"/>
[[Tập tin:B-17 Flying Fortress.jpg|nhỏ|trái|Những chiếc B-17 Flying Fortress tại Tây Âu trong Thế Chiến II]]
Trong Thế Chiến II, B-17 được trang bị cho 32 liên đội đóng ở nước ngoài, số lượng cao nhất là vào [[tháng tám|tháng 8]] năm [[Hàng không năm 1944|1944]] với 4.574 chiếc thuộc Không lực Mỹ khắp thế giới,<ref name="Baugher Squads">{{
=== Không quân Hoàng gia Anh ===
[[Tập tin:B-17C with RAF colors.jpg|phải|nhỏ|Fortress B.I số hiệu ''AN529'' của Không quân Hoàng gia Anh, nguyên là chiếc B-17C Không lực Mỹ số hiệu ''40-2065''. Ngày 8 tháng 11 năm 1941 tại Bắc Phi.]]
[[Không quân Hoàng gia Anh]] (RAF) tham gia Thế Chiến II mà không có được máy bay ném bom hạng nặng của riêng họ mãi đến tận năm [[Hàng không năm 1941|1941]], khi [[Short Stirling]] và [[Handley Page Halifax]] mới trở thành những máy bay ném bom chủ lực. Đầu năm [[Hàng không năm 1940|1940]], Không quân Hoàng gia đạt được thỏa thuận với Không Lực Mỹ để được cung cấp 20 chiếc B-17C, được đặt tên lại là '''Fortress I'''. Chiến dịch đầu tiên của chúng là ném bom xuống thành phố [[Wilhelmshaven]], Hạ Saxony, ngày [[8 tháng 7]] năm [[Hàng không năm 1941|1941]].<ref name="Goebel B-17B-D"/><ref name="Yenne.p23">{{chú thích sách | last =Yenne | first =Bill | title =B-17 at War | publisher =Zenith Imprint | date =2006 | location =St Paul, Minnesota | pages =p. 23| url = | doi = | isbn =0-7603-2522-7 |}}</ref><ref name="Chant">{{chú thích sách | last =Chant | first =Christopher | title =Warplanes of the 20th Century | publisher =Tiger Books International | date =1996|location =London|pages =p. 61–62| url =|isbn =1-85501-807-1|accessdate = }}</ref> Vào lúc đó, Không Lực Mỹ quy ước việc ném bom tầm cao là ở độ cao 6 km (20.000 ft), nhưng để tránh bị các [[máy bay tiêm kích]] đánh chặn, Không quân Hoàng gia đã ném bom vào các căn cứ hải quân ở độ cao 9 km (30.000 ft).<ref name="Fortress I In Combat">{{
Đến [[tháng chín|tháng 9]], sau khi Không quân Hoàng gia bị mất tám chiếc B-17C trong chiến đấu hay do tai nạn, [[Bộ Chỉ huy Ném bom Không quân Hoàng gia|Bộ Chỉ huy Ném bom]] đã từ bỏ việc ném bom chính xác ban ngày do khả năng kém cỏi của những chiếc Fortress I. Những chiếc còn lại được chuyển cho nhiều nhiệm vụ khác nhau bao gồm phòng thủ duyên hải.<ref name="Fortress I for RAF"/> Kinh nghiệm trên đã chứng minh cho cả Không quân Hoàng gia lẫn Không Lực Mỹ tình trạng không sẵn sàng chiến đấu của chiếc B-17C, và nó cần được cải tiến về phòng thủ, tăng tải trọng bom và phương pháp ném bom chính xác hơn vào trong các phiên bản tiếp theo. Hơn nữa, ngay cả với các cải tiến này, chỉ còn có Không Lực Mỹ, chứ không phải Không quân Hoàng gia, còn giữ ý định sử dụng B-17 trong vai trò ném bom ban ngày.<ref name="Fortress I In Combat"/>
Bộ chỉ huy Ném bom Không quân Hoàng gia đã chuyển giao những chiếc Fortress I còn lại sang [[Bộ Chỉ huy Duyên hải Không quân Hoàng gia|Bộ Chỉ huy Duyên hải]] để sử dụng trong vai trò máy bay tuần tra tầm cực xa. Chúng được tăng cường vào [[tháng tám|tháng 8]] năm [[Hàng không năm 1942|1942]] bởi 19 chiếc '''Fortress Mk II''' (B-17F) và 45 chiếc '''Fortress Mk IIA''' (B-17E).<ref name="Gustin">{{
Phi đội 223 Không quân Hoàng gia Anh, một đơn vị của Liên đội 100, đã sử dụng một số ít máy bay Fortress nhằm hỗ trợ cuộc tấn công ném bom làm nhiễu mạng lưới radar của Đức.<ref name="RAF">{{
=== Không lực Mỹ ===
[[Tập tin:Group of Women Airforce Service Pilots and B-17 Flying Fortress.jpg|nhỏ|phải|Bốn nữ phi công rời khỏi chiếc "Pistol Packin' Mama" của họ sau buổi tập của đơn vị [[Nữ Phi công Phục vụ Không lực (WASP)]] tại căn cứ Lockbourne, Ohio; được huấn luyện để vận chuyển máy bay B-17 Flying Fortress đến chiến trường. Từ trái sang phải: Frances Green, Marget (Peg) Kirchner, Ann Waldner và Blanche Osborn.]]
Không lực Mỹ (tên đầy đủ là [[Không lực Lục quân Hoa Kỳ]]/USAAF năm 1941) sử dụng B-17 và các kiểu máy bay ném bom trong các phi vụ ném bom chính xác ban ngày ở tầm cao bằng cách sử dụng một thiết bị mà cho đến lúc ấy còn đang được giữ bí mật, là [[bộ ngắm ném bom Norden]], một thiết bị quang học với con quay hồi chuyển cơ-điện điều khiển bằng máy tính. Trong các phi vụ ném bom ban ngày, thiết bị có khả năng xác định, thông qua các tham số do sĩ quan ném bom đưa vào, điểm thả bom có khả năng trúng đích. Trong lúc ném bom, quyền kiểm soát lái máy bay được chuyển cho sĩ quan ném bom, duy trì một độ cao ngang bằng vào những phút cuối.<ref name="Baugher B-17B">{{
Không lực Mỹ khởi sự gầy dựng lực lượng tại châu Âu với máy bay B-17E không lâu sau khi Mỹ tham gia Thế Chiến II. Các đơn vị đầu tiên của [[Không lực 8]] đến [[High Wycombe]], [[Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland|Anh Quốc]] ngày [[12 tháng 5]] năm [[Hàng không năm 1942|1942]], thành lập nên Liên đội Ném bom 97.<ref name="Northstar"/> Ngày [[17 tháng 8]] năm [[Hàng không năm 1942|1942]], 18 chiếc B-17E của Liên đội 97, bao gồm chiếc ''Yankee Doodle'' do Thiếu tướng [[Paul Tibbets]] và Chuẩn tướng [[Ira Eaker]] chỉ huy, được hộ tống bởi những máy bay tiêm kích [[Supermarine Spitfire]] của Không quân Hoàng gia, tham dự trận ném bom đầu tiên của Không lực Mỹ tại châu Âu xuống [[ga đầu mối đường sắt]] tại [[Rouen]]-Sotteville trên nước Pháp.<ref name="Northstar"/><ref name="AOM">{{
=== Chiến lược tấn công phối hợp ===
Dòng 85:
Hai chiến lược khác nhau của Bộ chỉ huy ném bom Hoa Kỳ và Anh Quốc được tổ chức lại tại [[Hội nghị Casablanca]] vào [[tháng một|tháng 1]] năm [[Hàng không năm 1943|1943]]. Kết quả là [[Chiến dịch Pointblank]] được vạch ra nhằm một chiến lược "Phối hợp tấn công ném bom" nhằm làm suy yếu [[Quân đội Đức|quân đội]] [[Đức Quốc xã]] và chiếm được ưu thế trên không nhằm chuẩn bị cho việc tấn công trên bộ.<ref name="Carey Pointblank"/> Chiến dịch Pointblank mở đầu bằng các cuộc tấn công các mục tiêu tại Tây Âu. Tướng [[Ira C. Eaker]] và Không lực 8 đặt ưu tiên cao nhất trong việc tấn công vào công nghiệp hàng không Đức, đặc biệt là các nhà máy lắp ráp máy bay tiêm kích, chế tạo động cơ và chế tạo vòng bi.<ref name="Carey Pointblank"/>
Ngày [[17 tháng 5]] năm [[Hàng không năm 1943|1943]], một cuộc tấn công vào nhà máy của [[Focke-Wulf]] tại [[Bremen]] thực hiện bởi 115 chiếc Fortress mang lại ít kết quả, 16 chiếc bị bắn rơi và 48 chiếc khác bị hư hại.<ref name="Fortress over Europe">{{
Vì việc ném bom các sân bay Đức không làm giảm được tương xứng sức mạnh của máy bay tiêm kích Đức, nên đã có thêm các liên đội B-17 được thành lập nhằm đáp ứng yêu cầu của Eaker mở các chiến dịch đánh sâu hơn vào các mục tiêu công nghiệp Đức quan trọng. Giờ đây Không lực 8 nhắm đến các nhà máy vòng bi tại [[Schweinfurt]], hy vọng sẽ bóp nghẹt các nỗ lực chiến tranh ở đây. Đợt [[trận đánh Schweinfurt-Regensburg|tấn công]] đầu tiên ngày [[17 tháng 8]] năm [[Hàng không năm 1943|1943]] không gây được tổn hại đáng kể nào cho nhà máy; trong khi với tổng số 230 chiếc B-17 tham gia tấn công bị đánh chặn bởi khoảng 300 máy bay tiêm kích Không quân Đức, đã có 36 máy bay bị bắn rơi và tổn thất 200 người. Cùng với trận không kích cùng ngày trước đó nhắm vào [[Regensburg]], tổng cộng có 60 chiếc B-17 bị mất trong ngày đó.<ref name="Hess.pp59-60">Hess 1994, trang 59–60.</ref>
Một nỗ lực thứ hai vào ngày [[14 tháng 10]] năm [[Hàng không năm 1943|1943]] mà sau này được biết đến như là [[trận không kích Schweinfurt thứ hai|"ngày thứ ba đen tối"]].<ref name="Walden">{{
[[Tập tin:B-17F formation over Schweinfurt, Germany, August 17, 1943.jpg|phải|nhỏ|Đội hình những chiếc B-17F bên trên bầu trời [[Schweinfurt]], Đức, 17 tháng 8 năm 1943.]]
Dòng 97:
[[Tập tin:B-17G formation on bomb run.jpg|trái|nhỏ|B-17G thuộc Liên đội Ném bom 384 đang thả bom.]]
Cuộc tấn công thứ ba nhắm vào Schweinfurt ngày [[24 tháng 2]] năm [[Hàng không năm 1944|1944]] được ghi dấu sau này như là "[[Tuần lễ Vĩ đại]]". Với những chiếc máy bay tiêm kích [[North American P-51 Mustang|P-51 Mustang]] và [[Republic P-47 Thunderbolt|P-47 Thunderbolt]] (trang bị [[thùng nhiên liệu phụ vứt được]] cải tiến để tăng tầm bay) theo hộ tống suốt chặng đường đến mục tiêu và quay trở về, chỉ có 11 trong số 231 chiếc B-17 bị mất.<ref name="USAAF">{{
<ref>{{
Cho đến [[tháng chín|tháng 9]] năm [[Hàng không năm 1944|1944]], 27 trong tổng số 40 liên đội ném bom của Không lực 8 và sáu trong tổng số 21 liên đội ném bom của Không lực 15 sử dụng B-17. Tổn thất do [[pháo phòng không]] gây ra cho những máy bay ném bom hạng nặng tiếp tục ở mức độ cao trong suốt năm [[Hàng không năm 1944|1944]], nhưng cho đến ngày [[27 tháng 4]] năm [[Hàng không năm 1945|1945]], (hai ngày sau trận ném bom hặng nặng lớn cuối cùng xuống châu Âu) mức độ tổn thất thấp đến mức không cần bổ sung máy bay thay thế và số lượng máy bay trong mỗi liên đội ném bom được giảm bớt. Đợt phối hợp tấn công chiến lược đã được kết thúc một cách rất hiệu quả.<ref name="USAAF.04-45">{{
|
=== Mặt trận Thái Bình Dương ===
Dòng 119:
B-17 được sử dụng trong các trận chiến ban đầu tại Thái Bình Dương nhưng đem lại ít kết quả, đáng kể là trong các [[Trận chiến biển Coral]] và [[Trận Midway]]. Trong lúc đó, những chiếc B-17 thuộc [[Không lực 5]] được giao nhiệm vụ phá vỡ các đường vận chuyển trên biển của Nhật. Học thuyết của Không lực hướng dẫn việc bay ném bom từ tầm cao, nhưng được phát hiện không lâu sau đó là chỉ có 1% bom trúng đích. Dù sao, B-17 hoạt động ở độ cao lớn đến mức đa số những chiếc máy bay tiêm kích [[Mitsubishi A6M Zero|A6M Zero]] không thể đạt tới, và trang bị vũ khí phòng thủ rất mạnh của chiếc B-17 là quá đủ cho những chiếc máy bay tiêm kích Nhật Bản vốn được bảo vệ khá mong manh.
Chỉ huy của [[Không lực 5]], Trung tướng [[George Kenney]], là một người rất hâm hộ kỹ thuật mới [[cắt ném bom]] (skip bombing) (một kỹ thuật ném bom mà bom được thả ở độ cao rất thấp, khiến bom chạm mặt nước ở một góc đủ nông để nó được "cắt" hay uốn cong xuống). Vào ngày [[2 tháng 3]] năm [[Hàng không năm 1943|1943]], sáu chiếc B-17 thuộc Phi Đội 64 đã tấn công một đoàn tàu vận tải binh lính từ độ cao 3 km (10.000 ft) trong giai đoạn đầu của [[trận chiến biển Bismarck]] ngoài khơi [[New Guinea]], đã áp dụng cách cắt bom và đánh chìm ba tàu buôn Nhật, trong đó có chiếc ''Kyokusei Maru''.<ref name="Frisbee">{{chú thích tạp chí | last =Frisbee | first =John L. | title =Valor:Skip-Bombing Pioneer | journal =Air Force Magazine | volume =73 | issue =12 | pages=|publisher =|date =tháng 12 năm 1990|url =http://www.afa.org/magazine/valor/1290valor.asp | accessdate =9 tháng 1 năm 2007}}</ref> Một chiếc B-17 đã bị máy bay [[Mitsubishi A6M Zero|A6M Zero]] xuất phát từ [[New Britain]] bắn rơi, và sau đó viên phi công Nhật này đã dùng súng máy bắn vào một vài thành viên đội bay B-17 khi họ hạ xuống bằng dù rồi tiếp tục tấn công họ trên mặt nước.<ref name="awm">{{Chú thích web | url = http://www.awm.gov.au/atwar/remembering1942/bismark/ |
Chỉ có năm liên đội B-17 hoạt động tại [[Mặt trận Tây Nam Thái Bình Dương trong Thế Chiến II|Mặt trận Tây Nam Thái Bình Dương]]. Vào lúc cao điểm có 168 chiếc máy bay ném bom B-17 hoạt động tại mặt trận này vào thời điểm [[tháng chín|tháng 9]] năm [[Hàng không năm 1942|1942]], tất cả đều chuyển sang loại máy bay khác vào giữa năm [[Hàng không năm 1943|1943]].
Dòng 126:
[[Tập tin:Bomber stream.jpg|nhỏ|phải|Một phần của dòng máy bay B-17 của Không lực Mỹ lên đến trên 1.000 chiếc]]
[[Tập tin:B-17 Schweinfurt.jpg|nhỏ|phải|Đội hình B-17 đang bay qua lưới lửa [[pháo phòng không]] dày đặc trên bầu trời [[Merseburg]], Đức]]
Trước khi có việc hộ tống tầm xa bằng [[máy bay tiêm kích]], những chiếc B-17 chỉ có thể dựa vào những khẩu súng máy [[M2 Browning]] 12,7 mm (0,50 in) để tự vệ trong khi ném bom bên trên bầu trời châu Âu. Khi cuộc chiến ngày càng ác liệt, Boeing sử dụng những thông tin phản hồi từ các đội bay để cải tiến các phiên bản mới hơn với số vũ khí và vỏ giáp ngày càng tăng.<ref name="Boeing">{{
|
Một cuộc điều tra của Không lực Mỹ tiến hành năm [[Hàng không năm 1943|1943]] tìm thấy rằng trên phân nửa các máy bay ném bom bị Đức bắn rơi đã rời bỏ sự bảo vệ của đội hình chính.<ref name="B-17.de 2">{{
Kết quả là, tỉ lệ tổn thất của B-17 cao đến 25% trong một số phi vụ lúc đầu (60 trong tổng số 291 chiếc B-17 bị mất trong chiến đấu trong đợt không kích thứ hai nhắm vào [[Schweinfurt]]<ref name="Caidin">{{chú thích sách | last =Caidin | first =Martin | title =Black Thursday | publisher =E.P. Dutton & Co. Inc.| location =New York | date =1960 |pages =| url = | doi = | isbn =0-553-26729-9 | accessdate = }}</ref>), và phải cho đến khi có sự tham gia của việc hộ tống tầm xa bằng máy bay tiêm kích hiệu quả (đặc biệt là bởi những chiếc [[North American P-51 Mustang|P-51 Mustang]]), làm suy yếu lực lượng máy bay tiêm kích đánh chặn Đức giữa [[tháng hai|tháng 2]] và [[tháng sáu|tháng 6]] năm [[Hàng không năm 1944|1944]], mà những chiếc B-17 mới trở nên lực lượng chiến lược đầy uy lực.
Chiếc B-17 được ghi nhận là có khả năng chịu đựng hư hại trong chiến đấu mà vẫn đến ̣được mục tiêu và đưa đội bay quay về căn cứ an toàn. Wally Hoffman, một phi công B-17 của Không Lực 8 trong Thế Chiến II, đã nói: "Chiếc máy bay có thể bị cắt và chém hầu như ra thành từng mảnh do hỏa lực đối phương và vẫn có thể mang đội bay của nó quay về nhà."<ref name="Hoffman">{{
Thiết kế của chiếc B-17 trải qua tám thay đổi lớn trong suốt quá trình sản xuất, tích lũy lại nơi phiên bản B-17G, khác biệt phiên bản ngay trước nó bằng việc bổ sung một tháp súng "cằm" gồm hai súng máy 12,7 mm (0,50 inch) [[M2 Browning]] dưới mũi máy bay. Điều này đã cho phép hạn chế được điểm yếu kém chính trong phòng thủ của chiếc B-17 khi bị tấn công trực diện.
Dòng 145:
Không quân Đức cũng áp dụng vào giữa [[tháng tám|tháng 8]] năm [[hàng không năm 1943|1943]], như một kiểu tấn công "cân bằng", loại vũ khí cối rocket ''Werfer-Granate 21'' (Wfr. Gr. 21) phóng ra từ những ống phóng hình trụ gắn một chiếc cố định dưới mỗi cánh trên những chiếc máy bay tiêm kích một động cơ của Không quân Đức, và hai ống phóng dưới mỗi cánh trên một số chiếc máy bay tiêm kích hạng nặng ban ngày [[Messerschmitt Bf 110|Bf 110]], với kỳ vọng chúng sẽ là vũ khí chống ném bom chủ lực. Tuy nhiên, do tính chất đường đạn đi xuống của rocket khi bắn ra, ngay cả khi ống phóng được gắn chếch lên một góc 15°, và cũng do số ít máy bay được trang bị loại vũ khí này, kiểu cối rocket Wfr.Gr. 21 chưa bao giờ có ảnh hướng lớn đến đội hình chiến đấu của những chiếc Fortress. Cũng phải kể đến những nỗ lực của Không quân Đức nhằm trang bị các khẩu pháo cỡ lớn ''Bordkanone'' cỡ nòng 37, 50 và thậm chí là 75 mm (2,95 inch) trên những máy bay hai động cơ như là kiểu tiêm kích đặc biệt [[Junkers Ju 88|Ju 88P]], và ngay cả trên một phiên bản của kiểu máy bay [[Messerschmitt Me 410|Me 410]] ''Hornisse''. Dù sao, các loại vũ khí chống ném bom này ít có hiệu quả trên các đợt tấn công ném bom chiến lược của Hoa Kỳ.
Chiếc [[Messerschmitt Me 262|Me 262]] cũng ghi được những thắng lợi trung bình trên chiếc B-17 trong giai đoạn sau của cuộc chiến. Với vũ khí trang bị thường xuyên gồm bốn pháo [[MK 108]] gắn trước mũi, và trên một số phiên bản còn được trang bị rocket [[R4M]] mang trên đế dưới cánh, nó có thể bắn từ bên ngoài tầm của những khẩu súng máy 0,50 in phòng thủ của chiếc máy bay ném bom, và bắn hạ nó chỉ với một phát trúng duy nhất.<ref name="Schollars">{{
[[Tập tin:B17 kg200.jpg|nhỏ|phải|Chiếc B-17F-27-BO do [[Không quân Đức]] chiếm được, nguyên là máy bay của Không lực Mỹ tên "Wulf Hound", số hiệu ''41-24585'', thuộc Phi đội 360, Liên đội Ném bom 303, bị mất tích trong hoạt động vào ngày 16 tháng 10 năm 1942. Được đưa ra hoạt động trong [[Phi đoàn Chiến đấu 200]] Không quân Đức.]]
Trong Thế Chiến II, sau khi bị rơi hoặc buộc phải hạ cánh, có khoảng 40 chiếc B-17 bị Không quân Đức chiếm giữ và tân trang, và khoảng một tá chiếc được đưa trở lại hoạt động. Được sơn màu của Đức và mang tên hiệu "Dornier Do 200"<ref name="Do 200">{{
=== Hoạt động sau chiến tranh ===
Dòng 156:
Sau Thế Chiến II, chiếc B-17 được xem là đã lạc hậu và hầu hết máy bay của Không lực Lục quân Mỹ được cho nghỉ hưu. Các đội bay mang chiếc máy bay ném bom của họ băng qua Đại Tây Dương trở về Mỹ, nơi hầu hết được tháo dỡ và nấu chảy. Sau khi được thành lập như một binh chủng độc lập vào năm [[hàng không năm 1947|1947]], [[Không quân Hoa Kỳ]] sử dụng những chiếc B-17 Flying Fortress (ban đầu được gọi là '''F-9''' do từ ''Fotorecon'', trinh sát hình ảnh, sau này là '''RB-17''') cho [[Bộ chỉ huy Không quân Chiến lược]] (SAC) từ năm [[Hàng không năm 1946|1946]] đến năm [[Hàng không năm 1951|1951]]. [[Dịch vụ cứu nạn]] Không quân Hoa Kỳ trực thuộc [[Dịch vụ Vận tải Hàng không Quân sự]] (MATS, Military Air Transport Service) cũng sử dụng những chiếc phiên bản SB-17, còn được gọi là máy bay [[cứu nạn hàng hải]] [[Dumbo (cứu nạn hàng hải)|"Dumbo"]], từ cuối những năm [[thập niên 1940|1940]] đến giữa những năm [[thập niên 1950|1950]].
Vào cuối những năm [[thập niên 1950|1950]], những chiếc B-17 cuối cùng còn hoạt động cùng Không quân Hoa Kỳ là những phiên bản QB-17 giả lập mục tiêu, DB-17P điều khiển mục tiêu giả, và một ít chiếc máy bay vận tải VIP VB-17. Phi vụ cuối cùng do một chiếc Fortress Không quân thực hiện diễn ra vào ngày [[6 tháng 8]] năm [[hàng không năm 1959|1959]], khi chiếc DB-17P số hiệu ''44-83684'' điều khiển một chiếc QB-17G số hiệu ''44-83717'' bên trên [[Căn cứ Không quân Holloman]], [[New Mexico]] làm giả một mục tiêu cho cuộc thử nghiệm bắn [[tên lửa không-đối-không]] [[AIM-4 Falcon|Falcon]] từ một máy bay tiêm kích [[McDonnell F-101 Voodoo|F-101 Voodoo]]. Một buổi lễ nghỉ hưu được tổ chức nhiều ngày sau đó tại căn cứ Holloman, sau đó chiếc ''44-83684'' được chuyển về [[Trung tâm Tồn trữ và Loại bỏ máy bay quân sự]] (MASDC) ở [[Căn cứ Không quân Davis-Monthan]], [[Arizona]]. Chiếc [[Memphis Belle (B-17)|''Memphis Belle'']], có lẽ là chiếc B-17 nổi tiếng nhất, được [[bảo tàng Quốc gia Không quân Hoa Kỳ]] chọn lựa để khôi phục lại kiểu dáng nguyên thủy thời chiến tranh.<ref name="Kern">{{
==== Hải quân và Tuần duyên Hoa Kỳ ====
Dòng 175:
Mười bảy chiếc B-17G Không lực do Vega chế tạo được lực lượng [[Tuần duyên Hoa Kỳ]] sử dụng dưới tên gọi PB-1G. Vào [[tháng bảy|tháng 7]] năm [[hàng không năm 1945|1945]], 18 chiếc B-17 được Không lực Mỹ dành riêng ra để chuyển cho Tuần duyên Mỹ thông qua Hải quân. Những máy bay này ban đầu mang số hiệu của hải quân và chiếc PB-1G đầu tiên được giao cho lực lượng Tuần duyên vào [[tháng bảy|tháng 7]] năm [[hàng không năm 1946|1946]]. Trong thực tế chỉ có mười lăm chiếc PB-1G được giao, và lực lượng Tuần duyên sở hữu thêm một máy bay nữa trực tiếp từ Không quân Mỹ vào năm [[hàng không năm 1947|1947]].
Những chiếc PB-1G của lực lượng Tuần duyên Mỹ được bố trí khắp Bắc Bán cầu, với năm chiếc tại [[Căn cứ Không lực Tuần duyên Elizabeth City]], [[Bắc Carolina|North Carolina]], hai chiếc tại [[sân bay quốc tế San Francisco|Căn cứ Không lực Tuần duyên San Francisco]], hai chiếc tại [[Căn cứ Không lực Hải quân Argentia]], [[Newfoundland]], một chiếc tại [[Căn cứ Không lực Tuần duyên Kodiak]], [[Alaska]], và một chiếc tại tiểu bang Washington. Chúng được sử dụng chủ yếu cho việc cứu nạn hàng hải, nhưng cũng được dùng cho việc tuần tra băng trôi và chụp ảnh bản đồ. Những chiếc PB-1G cứu nạn hàng hải thường mang theo một bè cứu sinh thả được bên dưới thân, và được sơn màu vàng-đen truyền thống của việc cứu nạn. Tháp pháo dưới cằm thường được thay thế bằng một vòm radar. Trong những năm sau chiến tranh, PB-1G Tuần duyên Mỹ được sơn huy hiệu quốc gia trên cánh đuôi đứng thay vì trên thân máy bay, một điều mà những chiếc máy bay cánh cố định của lực lượng này vẫn còn áp dụng cho đến ngày nay. Chúng tiếp tục phục vụ trong vài trò này cho đến hết [[thập niên 1950]], khi chiếc cuối cùng được rút khỏi phục vụ vào ngày [[14 tháng 10]] năm [[hàng không năm 1959|1959]]. Chiếc máy bay cuối cùng được bán do dư thừa, được sử dụng nhiều năm như một máy bay chở dầu, và ngày nay được trưng bày tại Arizona.<ref name="Baugher PB-1">{{
==== Các ứng dụng khác ====
Hiện nay còn khoảng một tá chiếc B-17 còn bay được trong khoảng năm chục khung máy bay còn sống sót. Nhiều chiếc trong số này là những máy bay dư thừa hoặc máy bay huấn luyện, vốn được giữ lại Mỹ trong Thế Chiến II. Tuy nhiên, cũng có vài ngoại lệ.
Nhiều chiếc B-17 cùng với các kiểu máy bay ném bom khác thời Thế Chiến II được chuyển sang làm [[máy bay hành khách dân dụng]]. Những chiếc B-17 khác kéo dài thời gian phục vụ của nó như những máy bay phun thuốc trừ sâu tại vùng Đông Nam Hoa Kỳ, hoặc máy bay chở nước trên không dùng để chống lại cháy rừng vùng Tây Bắc Hoa Kỳ.<ref name="Commercial Transports">{{
== Các phiên bản/giai đoạn thiết kế ==
Dòng 191:
| Kiểu 299 || 1 || [[28 tháng 7]] năm [[Hàng không năm 1935|1935]]<ref name="first flight"/>
|-bgcolor="#f5faff"
| YB-17 || 13 || [[2 tháng 12]] năm [[Hàng không năm 1936|1936]]<ref name="Baugher Y1B-17">{{
|-
| YB-17A || 1 || [[29 tháng 4]] năm [[Hàng không năm 1938|1938]].<ref name="Donald"/>
Dòng 197:
| B-17B || 39 || [[27 tháng 6]] năm [[Hàng không năm 1939|1939]]<ref name="Baugher B-17B"/>
|-
| B-17C || 38 || [[21 tháng 7]] năm [[Hàng không năm 1940|1940]]<ref name="Baugher B-17C">{{
|-bgcolor="#f5faff"
| B-17D || 42 || [[3 tháng 2]] năm [[Hàng không năm 1941|1941]]<ref name="Baugher B-17D">{{
|-
| B-17E || 512 || [[5 tháng 9]] năm [[Hàng không năm 1941|1941]]<ref name="Baugher B-17E">{{
|-bgcolor="#f5faff"
| B-17F || 3.405 || [[30 tháng 5]] năm [[Hàng không năm 1942|1942]]<ref name="Baugher B-17F">{{
|-
| B-17F-BO || 2.300 ||
Dòng 222:
|}
Chiếc B-17 trải qua nhiều biến đổi trong mỗi giai đoạn thiết kế và các phiên bản. Trong số 13 chiếc '''YB-17''' được đặt hàng để thử nghiệm hoạt động, 12 chiếc được Liên đội Ném bom 2 tại sân bay Langley, Virginia sử dụng để phát triển kỹ thuật ném bom hạng nặng, trong khi chiếc thứ 13 được giao cho ''Bộ phận Hậu cần'' tại sân bay Wright Field, Ohio dùng để bay thử nghiệm.<ref name="Y1B-17">{{
[[Tập tin:Boeing XB-17 blister turret.jpg|nhỏ|trái|Tháp súng dạng ló ra trên chiếc Kiểu 299, không được áp dụng vào sản xuất]]
Dòng 230:
[[Tập tin:B-17G Nose in Detail.jpg|upright|nhỏ|trái|Chi tiết mũi máy bay phiên bản B-17G]]
Cho đến khi phiên bản cuối cùng '''B-17G''' xuất hiện, số lượng súng máy đã tăng từ bảy lên mười ba khẩu, thiết kế các vị trí súng được cố định, và các điều chỉnh khác cũng hoàn tất. Chiếc B-17G là phiên bản chót của B-17, bao gồm mọi thay đổi đã thực hiện trên phiên bản trước đó, chiếc '''B-17F''', và có tổng cộng 8.680 chiếc được chế tạo, chiếc cuối cùng vào ngày [[9 tháng 4]] năm [[Hàng không năm 1945|1945]].<ref name="B-17.de 3">{{
[[Tập tin:Boeing SB-17G.jpg|nhỏ|phải|Chiếc SB-17G Flying Fortress, số hiệu ''44-83722'', còn được gọi là B-17H, dùng làm máy bay tìm kiếm và giải cứu. Khung máy bay này sau đó được sử dụng như là một mục tiêu trong ba chiến dịch thử nghiệm nguyên tử ''Snapper'' tại Yucca Flats trong thập niên 1950 và bị hư hại nặng. Phần còn lại được sử dụng để phục hồi khung máy bay số hiệu ''44-85813'' tại Urbana, Ohio.]]
Hai phiên bản của chiếc B-17 đã bay dưới những tên khác, đó là chiếc [[Boeing XB-38 Flying Fortress|XB-38]] và chiếc [[YB-40 Flying Fortress|YB-40]]. Chiếc '''XB-38''' là một nền tảng dùng trong thử nghiệm kiểu động cơ [[Allison V-1710]] làm mát bằng nước, dự phòng trường hợp kiểu động cơ Wright được sử dụng bình thường trên chiếc B-17 không sẵn có. Chiếc '''YB-40''' là một phiên bản cải tiến dựa trên chiếc B-17 tiêu chuẩn được vũ trang mạnh, được sử dụng trước khi kiểu máy bay tiêm kích hộ tống tầm xa rất hiệu quả [[North American P-51 Mustang|P-51 Mustang]] được đưa ra hoạt động hộ tống việc ném bom. Vũ khí bổ sung bao gồm một tháp súng vận hành bằng điện tại phòng điện báo, tháp súng cằm (được tiếp tục trở thành trang bị tiêu chuẩn trên phiên bản B-17G) và hai súng máy 12,7 mm (0,50 inch) bên hông. Tổng số đạn được mang theo là trên 11.000 viên, làm cho chiếc YB-40 nặng hơn trên 4.500 kg (10.000 lb) so với một chiếc B-17F chất đầy tải. Không may là, chiếc YB-40 với rất nhiều trang bị nặng gặp phải vấn đề không theo kịp tốc độ những chiếc máy bay ném bom rỗng, và do đó, cùng với sự ra đời của chiếc P-51 Mustang, kế hoạch bị dừng và cuối cùng kết thúc vào [[tháng bảy|tháng 7]] năm [[Hàng không năm 1943|1943]].<ref name="Baugher XB-38">{{
Vào cuối Thế Chiến II, có ít nhất 25 máy bay B-17 được dùng làm máy bay giả, trang bị hệ thống điều khiển bằng radio và chất đầy 9.000 kg (20.000 lb) chất nổ [[Torpex]] và [[Trinitrotoluen|TNT]], được đặt tên là "tên lửa '''BQ-7''' [[Chiến dịch Aphrodite|Aphrodite]]", và được sử dụng để chống lại các hầm ngầm chứa tên lửa [[V-1]] và các [[công sự]] đề kháng bom. [[Chiến dịch Castor]] được bắt đầu vào ngày [[23 tháng 6]] năm [[hàng không năm 1944|1944]], sử dụng Liên đội Ném bom 388 tại [[Knettishall]]. Một sân bay tại vùng dân cư thưa thớt của [[Norfolk]] được chọn làm [[Căn cứ Không quân Hoàng gia Fersfield]] gần [[Winfarthing]]. Máy bay giả sử dụng thường là một chiếc B-17 Fortress, và do một máy bay [[B-34 Ventura]] điều khiển để đâm vào mục tiêu.<ref name="Ramsey">Ramsey, Winston G. ''The V-Weapons''. London, United Kingdom: ''After The Battle'', Số 6, 1974, trang 21.</ref> Bốn chiếc "tên lửa" kiểu này đã được gửi đến [[Mimoyecques]], [[Siracourt]], [[Watten, Nord|Watten]] và [[Wizernes]] vào ngày [[4 tháng 8]], và chỉ gây thiệt hại nhẹ. Vào ngày [[6 tháng 8]], có thêm hai chiếc B-17 đâm xuống Watten với chút ít thành công. Dự án này đột ngột bị hủy bỏ sau khi có một vụ nổ máy bay trên không trung không giải thích được tại khu vực cửa sông [[Blyth]], liên quan đến một chiếc [[Consolidated B-24 Liberator|Liberator]] trong thành phần lực lượng của [[Hải quân Hoa Kỳ]] tham gia "Kế hoạch Anvil", đang trên đường đi đến [[Heligoland]] và do Trung úy phi công [[Joseph P. Kennedy Jr.]], anh trai của [[Tổng thống Hoa Kỳ|Tổng thống Mỹ]] tương lai [[John F. Kennedy]], điều khiển. Mảnh vỡ của vụ nổ trải rộng một khu vực có đường kính lên đến 8 km (5 dặm), và các quan chức Anh lo lắng rằng những tai nạn tương tự có thể lại xảy ra.<ref name="Ramsey">Ramsey, Winston G. "The V-Weapons". London: ''After the Battle'', Number 6, 1974, pp. 20–21.</ref> Vì hầu như rất ít (hoặc không có) chiếc BQ-7 nào trúng đích, những chiếc trong kế hoạch Aphrodite bị tháo bỏ vào năm [[Hàng không năm 1945|1945]].<ref name="Baugher BQ-7">{{
Trong và sau Thế Chiến II, một số loại vũ khí được thử nghiệm và sử dụng trên chiếc B-17, trong số đó có bom lượn "razon" (điều khiển bằng radio), và [[Ford]]-[[Republic]] [[JB-2 Loon]] (còn có tên lóng là Thunderbugs), một kiểu mẫu sao chép kỹ thuật của Mỹ từ kiểu bom bay Đức [[V-1]]. Một đoạn phim về chiếc V-1/JB-2 đang bay trên không được sử dụng rộng rãi trong nhiều phim tài liệu về [[Chiến tranh thế giới thứ hai|Thế Chiến II]] thực ra được quay từ một máy bay Không lực Mỹ [[Douglas A-26 Invader|A-26]] tại [[Căn cứ Không quân Eglin]], và được phóng từ đảo Santa Rosa, Florida. Vào cuối những năm [[Thập niên 1950|1950]], những chiếc B-17 cuối cùng hoạt động trong Không quân Hoa Kỳ là những máy bay mục tiêu giả '''QB-17''' và máy bay điều khiển mục tiêu giả '''DB-17P''', cùng một vài chiếc '''VB-17''' tân trang được sử dụng linh tinh tại các phi đội.
Dòng 254:
[[Tập tin:B-17 Damage Cologne.jpg|nhỏ|phải|Chiếc B-17G số hiệu [http://www.398th.org/Images/Images_Aircraft_B-17/Text/43-38172-3O-P_19441015_JBk.html ''43-38172''] thuộc Phi đội 601, Liên đội Ném bom 398, bị hư hại trong phi vụ ném bom xuống [[Köln|Cologne]], [[Đức]], vào ngày [[15 tháng 10]] năm [[Hàng không năm 1944|1944]]; sĩ quan ném bom George E. Abbott bị thiệt mạng. Phi công Trung úy Lawrence De Lancey đã đem chiếc Fortress bị hư hại quay trở về được [[Nuthampstead]], [[Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland|Anh Quốc]], nơi ảnh được chụp. Chú ý đến hiệu quả hướng lên trên của trái đạn pháo phòng không.]]
Các nhà làm phim [[Hollywood]] đã mang chiếc máy bay lên những cuốn phim của họ, như là ''[[Twelve O'Clock High]]'' với sự tham gia của [[Gregory Peck]].<ref name="imdb1">{{
Trong chiến tranh, [[Không lực 8]], lực lượng ném bom tấn công lớn nhất, được chỉ huy bởi các sĩ quan từng công khai ưa chuộng chiếc B-17. Trung tướng [[Jimmy Doolittle]] đã viết về ý muốn của ông để trang bị B-17 cho Không lực 8. Dẫn chứng ưu thế về tiếp liệu khi giữ các đơn vị ở tiền phương có số chủng loại máy bay tối thiểu với việc bảo trì và phụ tùng đặc trưng, ông mong mỏi được trang bị máy bay ném bom B-17 và máy bay tiêm kích P-51. Quan điểm của ông được các nhà phân tích thống kê của Không lực 8 ủng hộ, khi các nghiên cứu thừa nhận những chiếc Fortress có tính năng động và khả năng sống sót lớn hơn nhiều so với chiếc B-24.<ref name="Johnsen 2006"/>
Dòng 260:
Được ưa chuộng bởi các đội bay vì đưa được họ về nhà cho dù bị thiệt hại đáng kể trong chiến đấu, sự bền bỉ của nó, đặc biệt là khả năng đáp bằng bụng và đáp trên mặt biển, nhanh chóng trở nên huyền thoại.<ref name="Manual"/><ref name="browne">Browne, Robert W. "The Rugged Fortress: Life-Saving B-17 Remembered." ''Flight Journal: WW II Bombers,'' Winter 2001.</ref><ref name="Eaker"/> Những câu chuyện và hình ảnh về những chiếc B-17 sống sót sau các hư hại trong chiến đấu được lưu truyền rộng rãi, nâng cao tính biểu trưng của nó.<ref name="Johnsen 2006"/> Cho dù có tính năng bay và tải trọng bom kém hơn so với những chiếc [[Consolidated B-24 Liberator|B-24 Liberator]] có số lượng nhiều hơn,<ref name="Baugher 299"/> một cuộc khảo sát trên các đội bay của [[Không lực 8]] cho thấy một tỉ lệ hài lòng nhiều hơn trên chiếc B-17.<ref name="B-17.de"/>
Chiếc máy bay B-17 nổi tiếng nhất, chiếc [[Memphis Belle]], đã được cho bay cùng với đội bay của nó vòng quanh nước Mỹ để tuyên truyền cho tinh thần quốc gia (và để bán [[Trái phiếu Chiến tranh]]), và đã xuất hiện trong một phim tài liệu của Không lực Mỹ: ''[[Memphis Belle: A Story of a Flying Fortress]]''.<ref name="imdb2">{{
|
Sau khi chiến tranh kết thúc, đa số những chiếc B-17 bị tháo dỡ, nhưng Không quân Mỹ có giữ lại một số chiếc B-17 dành để chuyên chở các yếu nhân và hướng dẫn mục tiêu giả. Hải quân và lực lượng [[Tuần duyên Hoa Kỳ|Tuần duyên]] sở hữu 30 chiếc B-17 từ năm [[Hàng không năm 1945|1945]], được sử dụng để tuần tra biển, dưới tên gọi '''PB-1G''' như là máy bay tìm kiếm cứu nạn, tương tự như chiếc B-17H của Không lực; và kiểu '''PB-1W''', máy bay tuần tra duyên hải trang bị radar cảnh báo sớm. Chiến trang đã kết thúc trước khi những chiếc PB-1W được đưa vào hoạt động và các trang bị phòng vệ sau đó được tháo bỏ. Lực lượng Phòng vệ Duyên hải cho nghỉ hưu chiếc PB-1G cuối cùng số hiệu ''77254'' vào [[tháng mười|tháng 10]] năm [[Hàng không năm 1959|1959]], là chiếc Fortress cuối cùng hoạt động trong quân đội Mỹ.
Dòng 297:
== Những chiếc còn lại ==
{{chính|Những chiếc Boeing B-17 còn lại}}
Có tổng cộng 53 khung máy bay còn lại trên khắp thế giới <ref name="Weeks1">{{Chú thích web| url = http://www.johnweeks.com/b17static/index.html |
{{Chú thích web | url = http://www.johnweeks.com/b17active/index.html |
* 15 chiếc còn trong tình trạng bay được
* 19 chiếc được trưng bày
Dòng 345:
* Trung úy [[John C. Morgan]]<ref>Frisbee, John L. "Valor: Crisis in the Cockpit." ''Air Force Magazine'' Tập 67, Số 1, tháng 1 năm 1984.</ref>
* Đại úy [[Harl Pease]] (truy tặng)<ref>Frisbee, John L. "Valor: Rabaul on a Wing and a Prayer." ''Air Force Magazine'' Tập 73, Số 7, tháng 7 năm 1990.</ref>
* Thiếu úy [[Joseph Sarnoski]] (awarded posthumously)<ref>{{
|
* Thượng sĩ [[Maynard Harrison Smith|Maynard H. Smith]]<ref>Frisbee, John L. "Valor: First of the Few." ''Air Force Magazine'' Tập 67, Số 4, tháng 4 năm 1984.</ref>
* Trung úy [[Walter E. Truemper]] (truy tặng)<ref name="Point of Honor"/>
Dòng 355:
=== Các thành tích và sự kiện quân sự ===
* [[Allison Brooks|Allison C. Brooks]] (1917–2006): Được tặng thưởng nhiều huân chương quân sự, và cuối cùng được thăng đến cấp bậc Thiếu tướng, phục vụ trong quân đội thường trực cho đến năm [[1971]].
* Đại úy [[Werner G. Goering]]: Người Mỹ gốc Đức sinh trưởng tại Hoa Kỳ, cháu của Tư lệnh [[Không quân Đức|Không quân]] [[Đức Quốc xã]] trong Thế Chiến II [[Hermann Göring]].<ref>{{
* [[Immanuel J. Klette]] (1918–1988): Người Mỹ gốc Đức thế hệ thứ hai, tham gia 91 phi vụ chiến đấu, đứng đầu số phi vụ mà một phi công Không lực 8 từng thực hiện trong Thế Chiến II.<ref>Freeman 1993, trang 497–500.</ref>
* [[Colin Kelly]] (1915–1941): Phi công B-17 Hoa Kỳ đầu tiên bị mất trong chiến đấu.<ref>Frisbee, John L. "Valor: Colin Kelly (He was a Hero in Legend and in Fact)." ''Air Force Magazine'' Tập 77, Số 6, tháng 6 năm 1994.</ref>
* Đại tá [[Frank Kurtz]] (1911–1996): Phi công Không lực Mỹ được tặng thưởng nhiều huân chương nhất trong Thế Chiến II; đoạt huy chương đồng môn lặn tại [[Thế vận hội|Thế vận hội Olympic]] (1932); sống sót qua trận tấn công sân bay Clark, Philippines; Chỉ huy trưởng Liên đội Ném bom hạng nặng 463 thuộc Không lực 15 tại Celone, Foggia, Italy (1944–1945); cha của diễn viên [[Swoosie Kurtz]].
* Tướng [[Curtis LeMay]] (1906–1990): Trở thành Tư lệnh [[Bộ chỉ huy Không quân Chiến lược]] rồi trở thành Tư lệnh Không quân Hoa Kỳ.
* Trung tá [[Nancy Harkness Love|Nancy Love]] (1914–1976) và [[Betty Gillies|Betty (Huyler) Gillies]] (1908–1998): Những phụ nữ đầu tiên đạt chuẩn bay B-17 vào năm 1943.<ref name="museum2">{{
* Đại tá [[Robert K. Morgan]] (1918–2004): Phi công chính của chiếc ''Memphis Belle''.
* Trung tá [[Robert Rosenthal (Không quân Mỹ)|Robert Rosenthal]] (1917–2007): chỉ huy chiếc B-17 "Rosie's Riveters" duy nhất còn sống sót trong cuộc không kích của Liên đội Ném bom 100 thuộc Không lực 8 xuống [[Münster]] năm 1943, được tặng thưởng 16 huân chương (kể cả một chiếc của Anh và một của Pháp), và đã dẫn đầu cuộc ném bom xuống Berlin ngày [[3 tháng 2]] năm [[1945]] được cho là đã kết thúc mạng sống của Thẩm phán [[Roland Freisler]], một tên "đồ tể" của [[Đệ Tam đế chế (Đức)|Đệ Tam đế chế]].
Dòng 386:
Nguồn: The Encyclopedia of World Aircraft<ref name="Donald"/>
=== Đặc tính chung ===
* Đội bay: 10 người: <small>Phi công, phi công phụ, hoa tiêu, ném bom/xạ thủ súng máy mũi, kỹ sư/xạ thủ tháp súng lưng, điện báo viên, xạ thủ súng máy hông (2 người), xạ thủ tháp súng bụng, xạ thủ pháo đuôi.</small><ref name="Arizona">{{
* Chiều dài: 22,66 m (74 ft 4 in)
* [[Sải cánh]]: 31,62 m (103 ft 9 in)
|