Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Franklin D. Roosevelt”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n clean up
Dòng 58:
Franklin Delano Roosevelt chào đời ngày [[30 tháng 1]] năm [[1882]] tại thị trấn [[Hyde Park]] trong thung lũng [[sông Hudson]], [[tiểu bang New York]]. Cha của Franklin, [[James Roosevelt, Sr.]] và mẹ, [[Sara Ann Delano]] đều xuất thân từ những gia đình giàu có lâu đời ở tiểu bang New York. Họ nội của Franklin là người gốc [[Hà Lan]] trong khi họ ngoại đến từ [[Pháp]]. Franklin là người con duy nhất của gia đình.
 
Họ Roosevelt có nguồn gốc từ [[tiếng Hà Lan]] "van Rosevelt", nghĩa là "cánh đồng hoa hồng".<ref name="titleROOSEVELT - Surname Meaning|Origin for the Surname Roosevelt Genealogy">{{chúChú thích web |url=http://genealogy.about.com/library/surnames/r/bl_name-ROOSEVELT.htm |titletiêu đề=ROOSEVELT - Surname Meaning, Origin for the Surname Roosevelt Genealogy |accessdatengày truy cập=23 tháng 11 năm 2007}}</ref>
 
Roosevelt lớn lên trong một môi trường sống với nhiều đặc quyền. Bà nội của Franklin, Mary Rebecca Aspinwall, là chị em họ với [[Elizabeth Kortright Monroe]], phu nhân tổng thống thứ năm của Hoa Kỳ, [[James Monroe]]. Còn ông ngoại của Franklin, Warren Delano, Jr., là hậu duệ của những nhà lập quốc đến đất Mỹ trên tàu [[Mayflower]], [[Richard Warren]], [[Isaac Allerton]], [[Degory Priest]], và [[Francis Cooke]], từng làm giàu nhờ buôn [[thuốc phiện|nha phiến]] tại Trung Hoa.<ref>{{chú thích sách|author=Patrick D. Reagan|title=''Designing a New America: The Origins of New Deal Planning, 1890–1943''|năm=2000|trang=29}}</ref>
Dòng 64:
Sara là bà mẹ độc đoán, trong khi James là ông bố xa cách (James đã 54 tuổi khi Franklin chào đời). Sara có nhiều ảnh hưởng trên chàng thanh niên Franklin.<ref>''Eleanor and Franklin'', Lash (1971), 111 et seq.</ref> Các chuyến đi thường xuyên đến [[Châu Âu|Âu châu]] giúp Franklin thông thạo [[tiếng Đức]] và [[tiếng Pháp]]. Cậu cũng học cách cưỡi ngựa, bắn súng, chèo thuyền, chơi [[polo|pô-lô]] và tennis trên sân cỏ.
[[Tập tin:Fdrwithparents.jpg|trái|nhỏ|230px|Franklin Roosevelt, đi thuyền với bố và Helen R. Roosevelt năm 1899]]
Roosevelt đến học tại trường nội trú Groton thuộc giáo hội [[Anh giáo]] tại tiểu bang [[Massachusetts]]. Tại đây, Franklin tiếp nhận ảnh hưởng của hiệu trưởng Endicott Peabody, người đã dạy cho cậu hiểu rằng nghĩa vụ của người [[kitô hữu|tín hữu Cơ Đốc]] là giúp đỡ người kém may mắn, ông cũng khuyến khích học sinh tham gia tích cực vào các hoạt động cộng đồng. Roosevelt hoàn tất chương trình cử nhân tại trường đại học Harvard (Harvard College là một trường thuộc viện [[Đại học Harvard]]). Đang lúc học ở Harvard, người anh em họ năm đời của Franklin là [[Theodore Roosevelt]] đắc cử tổng thống; chính phong thái lãnh đạo cương quyết của Theodore và nhiệt tâm cải cách đã biến ông thành hình mẫu lý tưởng và nhân vật anh hùng trong mắt FDR. Năm [[1902]], Franklin gặp vợ tương lai của mình là [[Eleanor Roosevelt|Anna Eleanor Roosevelt]], cháu gái của Theodore trong một buổi tiếp tân tại [[Nhà Trắng]]. Eleanor là cháu gái họ năm đời của FDR.<ref name=5thcousins>{{chúChú thích web|url=http://www.gwu.edu/~erpapers/teachinger/q-and-a/q6.cfm |titletiêu đề=Question: How was ER related to FDR?|publishernhà xuất bản=The Eleanor Roosevelt Papers|accessdatengày truy cập=20 tháng 7 năm 2015}}</ref> Cả hai đều là hậu duệ của một người Hà Lan tên Claes Martensz van Rosenvelt (Roosevelt) đến vùng đất [[New Amsterdam]] (nay là [[Manhattan]] của [[thành phố New York]]) từ [[Hà Lan]] trong [[thập niên 1640]]. Hai người cháu của Rosenvelt (Roosevelt), Johannes và Jacobus, là tổ phụ của hai chi tộc họ Roosevetl tại Long Island và sông Hudson theo thứ tự vừa kể. Eleanor và Theodore là hậu duệ của tộc Johannes trong khi FDR thuộc tộc Jacobus.<ref name="5thcousins">{{chúChú thích web | publishernhà xuất bản = NPS | url = http://replay.waybackmachine.org/20021204013107/http://www.nps.gov/elro/who-is-er/q-and-a/q6.htm | titletiêu đề = Question: How was ER related to FDR?| work =The Eleanor Roosevelt Papers | accessdatengày truy cập = ngày 25 tháng 3 năm 2011}}</ref> Franklin và Eleanor kết hôn năm [[1905]], hai năm sau lần gặp gỡ đầu tiên.
 
Năm [[1905]], FDR vào trường luật Columbia nhưng không bao giờ tốt nghiệp. Sau khi qua được kỳ thi sát hạch của Luật sư đoàn tiểu bang New York năm [[1907]], Roosevelt quyết định bỏ học. Năm [[1908]], Roosevelt đến làm việc cho một tập đoàn nhiều uy tín ở Wall Street – Carter, Ledyard and Milburn – chuyên về luật công ty.
Dòng 78:
*[[John Aspinwall Roosevelt|John Aspinwall]] (1916–1981).
 
Một người con mất khi chưa tròn 1 tuổi. Năm người con còn lại trải qua cuộc sống xáo trộn, bị lu mờ vì sự nổi tiếng của ông bố và bà mẹ. Năm người này có cả thảy 19 lần kết hôn, 15 lần ly dị và sinh 29 người con. Cả bốn người con trai đều là sĩ quan quân đội tham gia [[Chiến tranh thế giới thứ hai]], tất cả đều được tặng thưởng huân chương biểu dương sự dũng cảm của họ trên chiến trường. Hai người được bầu vào [[Hạ viện Hoa Kỳ]]: FDR, Jr. phục vụ ba nhiệm kỳ, đại diện khu vực phía tây Thượng Manhattan. Còn James phục vụ 6 nhiệm kỳ, đại diện [[khu vực quốc hội|khu quốc hội]] số 26 của tiểu bang [[California]]. Tuy nhiên không có ai đắc cử vào chức vụ cao hơn mặc dù nhiều lần thử sức.<ref name=james>{{Chú thích web|năm=2003|url=http://www.nps.gov/archive/elro/glossary/roosevelt-james-son.htm|titletiêu đề=James Roosevelt|publishernhà xuất bản=Eleanor Roosevelt National Historic Site|accessdatengày truy cập = ngày 2 tháng 3 năm 2003}}</ref><ref name=elliott>{{chúChú thích web|năm=2003|url=http://www.nps.gov/archive/elro/glossary/roosevelt-elliott-son.htm|titletiêu đề=Elliott Roosevelt|publishernhà xuất bản=Eleanor Roosevelt National Historic Site|accessdatengày truy cập=2 tháng 3 năm 2003}}</ref><ref name=fdrjr>{{chúChú thích web|năm=2003|url=http://www.nps.gov/archive/elro/glossary/roosevelt-franklin-jr.htm|titletiêu đề=Franklin D. Roosevelt, Jr|publishernhà xuất bản=Eleanor Roosevelt National Historic Site|accessdatengày truy cập=2 tháng 3 năm 2003}}</ref><ref name=johna>{{Chú thích web|năm=2003|url=http://www.nps.gov/archive/elro/glossary/roosevelt-john.htm|titletiêu đề=John A. Roosevelt|publishernhà xuất bản=Eleanor Roosevelt National Historic Site|accessdatengày truy cập=2 tháng 3 năm 2003}}</ref>
 
Roosevelt còn có những mối quan hệ lãng mạn bên ngoài hôn nhân. Một trong những mối quan hệ này là với cô thư ký của Eleanor, [[Lucy Mercer]], chỉ một thời gian ngắn sau khi Mercer đến nhận việc vào đầu năm [[1914]]. Tháng 9 năm [[1918]], nhờ những bức thư tình tìm thấy trong hành lý của Franklin mà Eleanor phát hiện ra mối quan hệ này. Eleanor đến gặp chồng với những bức thư trên tay và yêu cầu ly dị. Qua trung gian của [[Louis Howe]], một cố vấn của Franklin, hai người hòa giải với nhau, nhưng trong thời gian còn lại của cuộc hôn nhân, Eleanor đến sống một mình trong một ngôi nhà ở Hyde Park tại Valkill."<ref name=abcnews>{{chúChú thích web|url=http://www.abcnews.go.com/Politics/story?id=3751714&page=1|titletiêu đề=Not in My White House: French-Style Divorce Unthinkable Here|publishernhà xuất bản=''ABC News'' |accessdatengày truy cập=19 tháng 10 năm 2007}}</ref>
 
==Sự nghiệp chính trị ban đầu==
===Thượng nghị sĩ Tiểu bang New York===
Năm [[1910]], Roosevelt tranh cử vào Thượng viện tiểu bang New York, đại diện cho một khu vực thuộc ''Quận Dutchess''. Đây là một khu vực bao quanh thị trấn Hyde Park mà từ năm [[1884]] chưa có một ứng viên đảng [[Đảng Dân chủ (Hoa Kỳ)|Dân chủ]] nào đắc cử ở đây. Tham gia cuộc đua, Roosevelt là hình ảnh gắn kết với sự giàu có, đặc quyền và ảnh hưởng tại Hudson Valley. Chiến thắng vang dội của đảng Dân chủ năm ấy đã đưa Roosevelt đến thủ phủ tiểu bang là [[Albany, New York|Albany]]. Roosevelt nhậm chức ngày 1 tháng 1 năm 1911 và trở thành thủ lĩnh nhóm "phản loạn" chống đối bộ máy chính trị "Tammany Hall" (nhóm chính trị thuộc đảng Dân chủ luôn đóng vai trò chính kiểm soát chính trường [[thành phố New York]]) là nhóm đang chi phối đảng Dân chủ của tiểu bang. Cuộc bầu cử [[Thượng viện Hoa Kỳ]] được bắt đầu với việc [[bầu cử sơ bộ]] của đảng Dân chủ vào ngày 16 tháng 1 năm 1911 có kết quả bế tắc vì sự tranh giành của hai phe phái trong 74 ngày. Ngày 31 tháng 3, [[James A. O'Gorman]] được bầu và Roosevelt đạt được mục tiêu của mình: đó là chọc giận bộ máy chính trị Tammany Hall bằng cách ngăn chặn người mà nhóm này chọn lựa làm ứng cử viên là [[William F. Sheehan]]. Chẳng bao lâu sau đó, Roosevelt trở nên một khuôn mặt quen thuộc đối với các đảng viên Dân chủ New York. Ông tái đắc cử nhiệm kỳ hai trong cuộc bầu cử tiểu bang năm 1912 nhưng từ chức thượng nghị sĩ tiểu bang vào ngày 17 tháng 3 năm 1913 để nhận bổ nhiệm làm Trợ tá [[Bộ trưởng Hải quân Hoa Kỳ]].<ref name="navyreward">{{Chú thích web |url=http://www.feri.org/common/news/info_detail.cfm?ClientID=11005&QID=2045 |titletiêu đề=
FDR Biography - Early Political Career |publishernhà xuất bản=Franklin & Eleanor Roosevelt Institute |accessdatengày truy cập = ngày 4 tháng 3 năm 2008}}{{dead link|date=tháng 8 năm 2010}}</ref><ref name="tammany">{{Chú thích web |url=http://www.sparknotes.com/biography/fdr/section2.rhtml |titletiêu đề=
Roosevelt's Entry Into Politics |work=Franklin D. Roosevelt |publishernhà xuất bản=Spark Notes |accessdatengày truy cập = ngày 4 tháng 3 năm 2008}}</ref>
 
=== Trợ tá Bộ trưởng Hải quân ===
Dòng 101:
Trong lúc đang đi nghỉ phép ở Đảo Campobello (8-1924), tỉnh [[New Brunswick]] của [[Canada]], Roosevelt bị nhiễm bệnh mà theo các bác sĩ của ông tin là bệnh bại liệt, dẫn đến tình trạng bị bại liệt hoàn toàn và vĩnh viễn từ thắt lưng trở xuống. Trong quãng đời còn lại, ông không bao giờ chấp nhận mình bị bại liệt vĩnh viễn. Ông cố thử nhiều cách trị liệu vật lý, kể cả thủy liệu pháp (''hydrotherapy''). Trong năm 1926, ông mua một khu nghỉ dưỡng ở [[Warm Springs, Georgia]]. Tại đây ông thành lập một trung tâm thủy liệu pháp cho bệnh nhân bại liệt. Trung tâm này vẫn còn hoạt động cho đến ngày nay với tên gọi ''Viện Phục hồi Roosevelt Warm Springs''. Sau khi trở thành Tổng thống Hoa Kỳ, Roosevelt giúp thành lập Quỹ Quốc gia cho Trẻ em bại liệt, ngày nay được gọi là "March of Dimes" (tạm dịch: cuộc đi bộ của tiền kim loại 10 xu). Chính vì sự lãnh đạo của ông trong tổ chức này nên hình ông được khắc trên đồng tiền kim loại 10 xu (tại Hoa Kỳ gọi là ''dime'').
 
Thời ấy, cuộc sống riêng tư của các nhân vật của công chúng không bị soi mói cặn kẽ như ngày nay nên ông có thể thuyết phục nhiều người nghĩ rằng sức khỏe của ông đã khá hơn nhiều, cũng như tin rằng ông có thể gánh vác trọng trách quốc gia lần nữa. Với những thanh sắt kẹp vào hông và chân, Roosevelt tự mình tập bước đi trong những khoảng cách ngắn với sự trợ giúp của một cây gậy. Trong chỗ riêng tư ông sử dụng một chiếc xe lăn, nhưng không bao giờ để công chúng thấy hình ảnh ông ngồi trên xe lăn. Roosevelt thường xuất hiện trước công chúng trong tư thế đứng thẳng người với một phụ tá hoặc một trong các con trai của ông đứng kế bên. Chiếc xe hơi của ông có bộ điều khiển tay được thiết kế đặc biệt giúp ông dễ dàng lái xe.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.fdrlibrary.marist.edu/museum/exhibits.html |titletiêu đề=Franklin D. Roosevelt Presidential Library and Museum - Exhibits |publishernhà xuất bản=Fdrlibrary.marist.edu |datengày tháng = ngày 31 tháng 1 năm 2010 |accessdatengày truy cập = ngày 7 tháng 2 năm 2010}}</ref>
 
Năm [[2003]], một cuộc nghiên cứu chuyên ngành cho thấy căn bệnh của Roosevelt rất có thể là [[hội chứng Guillain-Barré]], chứ không phải là ''bệnh bại liệt''.<ref>Goldman, AS ''et al'', [http://www.rsmpress.co.uk/jmb_2003_v11_p232-240.pdf ''What was the cause of Franklin Delano Roosevelt's paralytic illness?'']. J Med Biogr. 11: 232–240 (2003)</ref> Tuy nhiên, vì tủy sống của Roosevelt không được kiểm nghiệm nên nguyên nhân gây ra căn bệnh bại liệt của ông có thể chẳng bao giờ được xác định rõ ràng.
Dòng 139:
[[Tập tin:FDR Inauguration 1933.jpg|phải|nhỏ|Roosevelt và Hoover trong ngày nhậm chức, 1933.]]
 
Khi Roosevelt tuyên thệ nhậm chức vào ngày 4 tháng 3 năm [[1933]] (32 ngày sau khi Hitler được bổ nhiệm làm Thủ tướng Đức), nước Mỹ đang ở thời điểm tồi tệ nhất của cuộc khủng hoảng lớn nhất trong lịch sử. Một phần tư lực lượng lao động mất việc làm. Nông dân đang khốn đốn vì nông phẩm hạ giá 60%. Sản xuất công nghiệp chỉ còn hơn một nửa so với cùng kỳ năm 1929. Hai triệu người trở thành vô gia cư. Vì thiếu việc làm nên các tổ chức tội phạm và giới sống ngoài pháp luật ngày càng gia tăng. Chiều ngày [[4 tháng 3]], tất cả ngân hàng tại 32 trên 48 tiểu bang cũng như [[Washington, D.C.|Đặc khu Columbia]] đều đóng cửa.<ref>Jonathan Alter, ''The Defining Moment'' (2006), p. 190.</ref> Ngày [[5 tháng 3]], Ngân hàng Dự trữ Liên bang tại New York không thể mở cửa, do khách hàng hốt hoảng rút một khối lượng lớn tiền mặt trong những ngày trước đó.<ref name="SEK">{{Chú thích web |lasthọ 1=Kennedy|firsttên 1=Susan Estabrook |url=http://www.time.com/time/printout/0,8816,745289,00.html |datengày tháng= Mar 13, 1933 |titletiêu đề= Bottom (The Banking Crisis of 1933)|publishernhà xuất bản=Time Magazine|accessdatengày truy cập = ngày 2 tháng 3 năm 2008}}</ref>
 
Khởi đầu bài diễn văn nhậm chức, Roosevelt quy kết trách nhiệm cuộc khủng hoảng kinh tế lên giới ngân hàng và doanh nhân tài chính, lòng hám lợi, và nền tảng vị kỷ của [[chủ nghĩa tư bản]]:
Dòng 148:
"Một trăm ngày đầu tiên" của Roosevelt tập trung vào phần đầu của chiến lược: cứu trợ khẩn cấp. Từ ngày [[9 tháng 3]] đến [[16 tháng 6]] năm 1933, ông đệ trình Quốc hội con số kỷ lục các dự luật, và tất cả đều được thông qua. Tổng thống phải dựa vào những thượng nghị sĩ như [[George Norris]], [[Robert F. Wagner]] và [[Hugo Black]] cũng như nhóm cố vấn chuyên môn được tuyển chọn từ giới trí thức khoa bảng để thiết kế các chương trình hành động. Giống Hoover, Roosevelt xem cuộc Đại Suy thoái một phần là do khủng hoảng niềm tin vì người dân cảm thấy e ngại khi quyết định chi tiêu hoặc đầu tư.
 
Lễ nhậm chức của Roosevelt vào ngày [[4 tháng 3]] năm 1933 diễn ra khi nước Mỹ đang trong tình trạng hốt hoảng vì sự sụp đổ của hệ thống ngân hàng. Tình huống này cho ra đời câu nói nổi tiếng của ông: "Điều duy nhất mà chúng ta nên sợ hãi là nỗi sợ của chính mình".<ref name="bankrun">{{Chú thích web |lasthọ 1=Roosevelt |firsttên 1 = Franklin Delano |url = http://en.wikisource.org/wiki/Franklin_Roosevelt%27s_First_Inaugural_Address | titletiêu đề = First Inaugral Address | publishernhà xuất bản = Wikisource | accessdatengày truy cập = ngày 2 tháng 3 năm 2003}}</ref> Ngay hôm sau, Quốc hội Hoa Kỳ thông qua Đạo luật Ngân hàng Khẩn cấp (''Emergency Banking Act'') tuyên bố một "ngày lễ ngân hàng" và thông báo một chương trình cho phép các ngân hàng mở cửa lại. Tuy nhiên, con số các ngân hàng mở cửa sau "ngày lễ" ít hơn con số ngân hàng từng mở cửa trước đây.<ref>Samuelson, Paul Anthony (1964). ''Readings in Economics.'' McGraw-Hill. p. 140</ref> Đây là bước đề nghị đầu tiên của ông về phục hồi kinh tế. Để tạo lòng tin của dân chúng Mỹ đối với hệ thống ngân hàng, Roosevelt ký [[Đạo luật Ngân hàng 1933|Đạo luật Glass-Steagall]] để lập ra [[Federal Deposit Insurance Corporation]] gọi tắt là FDIC (tạm dịch là Công ty Bảo hiểm Tiền gửi ngân hàng Liên bang).
 
[[Tập tin:Lange-MigrantMother02.jpg|180px|nhỏ|phải|Hình chụp "''Bà mẹ di cư''" của [[Dorothea Lange]] miêu tả số phận hẩm hiu của những lao công thu hoạch đậu trong thời kỳ suy thoái. Tâm điểm là [[Florence Owens Thompson]], 32 tuổi, có bảy con, được chụp vào tháng 3 năm 1936]]
Dòng 174:
Nền kinh tế phát triển nhanh trong nhiệm kỳ của Roosevelt.<ref>''Historical Stats. U.S.'' (1976) series F31</ref> Tuy nhiên, sự phát triển này được theo sau là tình trạng thất nghiệp liên tục ở mức độ cao; tỉ lệ thất nghiệp trung bình trong thời New Deal là 17,2%. Suốt cả các nhiệm kỳ của ông, bao gồm những năm chiến tranh, tỉ lệ thất nghiệp trung bình là 13%.<ref>''Historical Statistics US'' (1976) series D-86; Smiley 1983</ref><ref>Smiley, Gene, "Recent Unemployment Rate Estimates for the 1920s and 1930s," Journal of Economic History, tháng 6 năm 1983, 43, 487–93.</ref> Tổng số thất nghiệp trong suốt nhiệm kỳ của ông nới rộng khoảng 18,31 triệu việc làm bị mất trong khi tỉ lệ gia tăng việc làm trung bình hàng năm dưới thời chính phủ của ông là 5,3%.<ref>{{Chú thích báo|url=http://graphics7.nytimes.com/images/2003/07/02/business/03JOBSch450.gif |publisher=The New York Times |title=Presidents and job growth |accessdate = ngày 20 tháng 5 năm 2006}}</ref>
 
Roosevelt không tăng thuế thu nhập trước khi [[Chiến tranh thế giới thứ hai]] bắt đầu; tuy nhiên [[thuế sổ lương]] (''payroll tax'') cũng bắt đầu được đưa ra nhằm gây quỹ cho chương trình mới là [[An sinh Xã hội (Hoa Kỳ)|An sinh Xã hội]] năm 1937. Ông cũng được Quốc hội Hoa Kỳ cho phép chi tiêu thêm cho nhiều chương trình và kế hoạch khác nhau mà chưa từng có trước đây trong lịch sử Hoa Kỳ. Tuy nhiên, dưới sức ép tài chính do Đại suy thoái gây ra, đa số các tiểu bang đều đưa ra thêm nhiều loại thuế hay tăng thuế trong đó có [[thuế thu nhập]] cũng như [[thuế gián thu]]. Việc Roosevelt đề nghị thu các loại thuế mới đối với tiền tiết kiệm của các công ty đã gây ra tranh cãi lớn trong 1936–37 nhưng cuối cùng chúng bị Quốc hội bác bỏ. Trong thời gian chiến tranh, ông thúc ép tăng tỉ lệ thuế thu nhập thậm chí cao hơn đối với cá nhân (lên đến một tỉ lệ thuế cận biên là 91%) và đại công ty, giới hạn mức lương cao đối với các viên chức lãnh đạo các công ty. Ông cũng phát Lệnh Hành pháp số 9250 vào tháng 10 năm 1942 nhằm tăng tỉ lệ thuế cận biên lên đến 100% đối với những ai có tiền lương vượt trên 25.000 [[đô la Mỹ|đô la]] (sau thuế). Điều đó có nghĩa là giới hạn mức lương cao nhất là lên đến 25.000 đô la (khoảng chừng 334.000 đô la năm 2008).<ref>{{Chú thích web| url=http://www.presidency.ucsb.edu/ws/index.php?pid=16171 | titletiêu đề=Franklin D. Roosevelt: Executive Order 9250 Establishing the Office of Economic Stabilization. | authortác giả 1=Franklin D. Roosevelt}}</ref><ref>{{Chú thích web| url=http://www.presidency.ucsb.edu/ws/index.php?pid=16342 | titletiêu đề=Franklin D. Roosevelt: Letter Against a Repeal of the $25,000 Net Salary Limitation. | authortác giả 1=Franklin D. Roosevelt | datengày tháng=6 tháng 2 năm 1943}}</ref><ref>{{Chú thích web| url=http://www.presidency.ucsb.edu/ws/index.php?pid=16363 | titletiêu đề=Franklin D. Roosevelt: Letter to the House Ways and Means Committee on Salary Limitation. | authortác giả 1=Franklin D. Roosevelt | datengày tháng=15 tháng 2 năm 1943}}</ref> Tuy nhiên lệnh hành pháp này bị Quốc hội hủy bỏ sau đó. Để tài trợ chiến tranh, Quốc hội mở rộng thu thuế đối với hầu hết những ai đi làm đều phải trả thuế thu nhập liên bang. Thuế trả trước (thuế được trừ ra trước khi tiền lương được phát) được giới thiệu vào năm 1943.
 
[[Tập tin:Gdp29-41.svg|nhỏ|450px|Tổng sản phẩm nội địa của Hoa Kỳ từ tháng 1 năm 1929 đến tháng 1 năm 1941]]<table class="wikitable">
Dòng 261:
Sự kiện [[Adolf Hitler]] lên nắm quyền tại Đức dấy lên nỗi e sợ bùng nổ một cuộc thế chiến mới. Năm [[1935]], thời điểm Ý xâm lăng [[Ethiopia]], Quốc hội Hoa Kỳ thông qua Đạo luật Trung lập, ra lệnh cấm vận chuyển vũ khí từ Mỹ đến các nước tham chiến. Roosevelt chống đối đạo luật dựa trên lập luận rằng đạo luật đang trừng phạt nạn nhân của sự xâm lược, trong trường hợp này là Ethiopia, đạo luật cũng hạn chế quyền hạn tổng thống trong nỗ lực trợ giúp các quốc gia thân thiện, song sự ủng hộ của công chúng dành cho đạo luật quá lớn nên Roosevelt bị buộc phải ký ban hành. Năm 1937, Quốc hội thông qua một đạo luật thậm chí còn nghiêm ngặt hơn nhưng khi chiến tranh Trung-Nhật năm [[1937]] bùng nổ thì công luận ủng hộ Trung Hoa do đó Roosevelt được rộng tay giúp đỡ nước này.<ref>Leuchtenberg (1963) ch 12.</ref>
 
Tháng 10 năm 1937, Roosevelt đọc "Bài diễn văn Cách ly" với chủ đích kiềm chế các quốc gia xâm lược. Ông đề nghị rằng các quốc gia hiếu chiến nên bị đối xử như một căn bệnh y học chung và cần phải bị "cách ly".<ref name="quarantine">{{Chú thích web |lasthọ 1=Roosevelt |firsttên 1=Franklin Delano |url=http://en.wikisource.org/wiki/Quarantine_Speech |titletiêu đề=Quarantine the Aggressor|publishernhà xuất bản=Wikisource |accessdatengày truy cập = ngày 2 tháng 3 năm 2003}}</ref> Trong khi đó ông bí mật thiết lập một chương trình chế tạo tàu ngầm có tầm hoạt động xa có thể phong tỏa [[Nhật Bản]].
 
Tháng 5 năm 1938, một cuộc đảo chính bất thành nổ ra do phong trào phát xít ''Integralista'' tại [[Brasil]] thực hiện. Sau cuộc đảo chính bất thành, chính phủ Brasil cho rằng Đại sứ Đức, Tiến sĩ Karl Ritter, có nhúng tay vào cuộc đảo chính này và tuyên bố rằng ông ta là ''persona non grata''<ref name="autogenerated133">Watt, D.C. ''How War Came The Immediate Origins of the Second World War'', Pantheon Books: New York 1989 page 133.</ref>. Sự việc Brasil tố cáo Đức hậu thuẫn cho cuộc đảo chính ''Integralista'' có một ảnh hưởng khích động đối với chính phủ Roosevelt vì nó gây hoang mang rằng tham vọng của người Đức không chỉ giới hạn trong khu vực châu Âu mà trên toàn thế giới.<ref name="autogenerated133"/> Điều này khiến cho chính phủ Roosevelt thay đổi cách nhìn trước đây về chế độ Đức Quốc xã: một chế độ khó ưa, tuy nhiên trên cơ bản không phải là vấn đề đáng lo đối với Mỹ<ref name="autogenerated133"/>.
Dòng 269:
Tháng 10 năm 1938, Roosevelt mở các buổi hội đàm bí mật với Pháp để xem có cách nào khắc phục được các luật lệ trung lập của Mỹ và cho phép Pháp mua các phi cơ Mỹ để lấp khoảng trống sản xuất trong ngành công nghiệp chế tạo phi cơ Pháp. Bản thân Roosevelt cũng bị nhiều tác động ảnh hưởng vì một bản báo cáo vào tháng 10 năm 1938 của Đại sứ Mỹ tại Pháp, [[William Christian Bullitt, Jr.|William Bullitt]] rằng Thủ tướng Pháp [[Édouard Daladier]] có nói với ông rằng "Nếu tôi có ba hoặc bốn ngàn phi cơ thì Hội nghị München đã không bao giờ xảy ra".<ref>Keylor, William "France and the Illusion of American Support, 1919-1940" pages 204–244 from ''The French Defeat of 1940 Reassessments'' edited by Joel Blatt Berghahn Books: Providence 1998 page 234</ref> Tháng 11 năm 1938, [[Jean Monnet]] bí mật đến Washington cùng với một ủy ban và ngay lập tức đặt mua 1.000 phi cơ chiến đấu Mỹ cho Không quân Pháp.<ref>Watt, D.C. ''How War Came The Immediate Origins of the Second World War'', Pantheon Books: New York 1989 page 132.</ref> Một vấn đề chính trong các cuộc hội đàm Pháp-Mỹ là làm sao người Pháp trả tiền mua phi cơ Mỹ và làm sao để người Mỹ khắc phục được các đạo luật trung lập của Mỹ<ref>Keylor, William "France and the Illusion of American Support, 1919-1940" pages 204–244 from ''The French Defeat of 1940 Reassessments'' edited by Joel Blatt Berghahn Books: Providence 1998 pages 235–236</ref> Ngoài ra, [[Đạo luật Johnson 1934]], cấm cho các quốc gia vỡ nợ tiền mượn trong thời [[Chiến tranh thế giới thứ nhất]] mượn thêm tiền, cũng là một yếu tố phức tạp hơn (Pháp đã vỡ nợ năm 1934 vì không trả nổi tiền nợ mượn trong thời Chiến tranh thế giới thứ nhất).<ref>Keylor, William "France and the Illusion of American Support, 1919-1940" pages 204–244 from ''The French Defeat of 1940 Reassessments'' edited by Joel Blatt Berghahn Books: Providence 1998 page 237</ref> Ngày 28 tháng 1 năm 1939, một sĩ quan Không quân Pháp bị thương trong một vụ rớt máy bay tại [[Los Angeles]]. Vụ tai nạn này có liên quan đến một nguyên mẫu máy bay đầu tiên của loại oanh tạc cơ [[Douglas A-20 Havoc|DB-7]] khiến làm lộ bí mật các cuộc hội đàm bí mật Pháp-Mỹ<ref>Watt, D.C. ''How War Came The Immediate Origins of the Second World War'', Pantheon Books: New York 1989 page 134.</ref>. Chuyện bại lộ này dấy lên một làn sóng lớn của chủ nghĩa biệt lập chống lại Roosevelt và dẫn đến việc Ủy ban Quân vụ Thượng viện Hoa Kỳ tiến hành điều tra các cuộc hội đàm Pháp-Mỹ<ref>Watt, D.C. ''How War Came The Immediate Origins of the Second World War'', Pantheon Books: New York 1989 pages 134-135.</ref>. Vì sự chống đối của chủ nghĩa biệt lập tại Quốc hội nên Roosevelt đã thực hiện một loạt những phát biểu trái ngược đến dân chúng Mỹ vào mùa đông năm 1939. Qua những phát biểu này, ông cảnh báo rằng Pháp và Anh Quốc là "phòng tuyến đầu tiên" của Mỹ cần viện trợ Mỹ và ông còn nói thêm rằng ông chỉ đang theo đuổi chính sách ngoại giao biệt lập mà sẽ không đẩy Hoa Kỳ vào bất cứ một cuộc chiến nào.<ref>Watt, D.C. ''How War Came The Immediate Origins of the Second World War'', Pantheon Books: New York 1989 pages 134-136.</ref> Những phát biểu trái ngược của Roosevelt càng khiến Hitler càng thêm khinh thường Roosevelt vì cho rằng ông là một lãnh tụ yếu thế, hay dao động và vì thế làm tăng thêm tính chủ quan của Hitler trong việc đánh giá Hoa Kỳ<ref>Watt, D.C. ''How War Came The Immediate Origins of the Second World War'', Pantheon Books: New York 1989 page 136.</ref>. Tháng 2 năm 1939, để trả tiền mua phi cơ chiến đấu, người Pháp đã đề nghị nhượng lại tất cả các thuộc địa của họ tại vùng [[biển Caribe]] và [[Thái Bình Dương]] với giá 10 tỉ franc, đánh đổi bằng quyền mua theo tín dụng không giới hạn các phi cơ Mỹ.<ref>Keylor, William "France and the Illusion of American Support, 1919-1940" pages 204–244 from ''The French Defeat of 1940 Reassessments'' edited by Joel Blatt Berghahn Books: Providence 1998 page 238</ref> Sau các cuộc thương thuyết căng thẳng, một cuộc dàn xếp được thỏa thuận vào mùa xuân năm 1939, cho phép Pháp thực hiện các đơn đặt hàng khổng lồ với ngành công nghiệp chế tạo phi cơ Mỹ; tính đến năm 1940, tuy phần lớn các phi cơ được đặt mua đã không được giao hàng tại Pháp nhưng Roosevelt đã sắp xếp đổi hướng giao hàng các phi cơ này cho người Anh vào tháng 6 năm 1940.<ref>Keylor, William "France and the Illusion of American Support, 1919-1940" pages 204–244 from ''The French Defeat of 1940 Reassessments'' edited by Joel Blatt Berghahn Books: Providence 1998 pages 233–244</ref>
 
Vào tháng 4 năm 1940, Đức xâm chiếm [[Đan Mạch]] và [[Na Uy]], theo sau là xâm chiếm [[Hà Lan]], [[Bỉ]], [[Luxembourg]], và Pháp vào tháng 5. Các chiến thắng của Đức tại [[Tây Âu]] khiến cho Anh Quốc trở nên suy yếu, dễ bị xâm chiếm. Vì quyết không để cho Anh Quốc bại trận, Roosevelt tận dụng ngay sự chuyển đổi nhanh chóng thái độ của công chúng. [[Paris]] sụp đổ gây hoang mang cho công luận Mỹ và tiếng nói của chủ nghĩa biệt lập cũng gần như tắt tiếng. Một sự đồng thuận cho thấy rằng chi tiêu quân sự phải được nới rộng một cách ngoạn mục. Không có sự đồng thuận rằng nguy cơ lâm chiến của Hoa Kỳ là bao nhiêu khi trợ giúp Anh Quốc. Tháng 7 năm 1940, FDR bổ nhiệm hai lãnh tụ theo chủ nghĩa can thiệp thuộc Đảng Cộng hòa, [[Henry L. Stimson]] và [[Frank Knox]], làm [[Bộ trưởng Chiến tranh Hoa Kỳ|bộ trưởng chiến tranh]] và [[Bộ trưởng Hải quân Hoa Kỳ|bộ trưởng hải quân]] theo thứ tự vừa kể. Cả hai đảng ủng hộ các chương trình của ông nhanh chóng xây dựng các lực lượng quân sự Mỹ, nhưng những người theo chủ nghĩa biệt lập cảnh báo rằng Roosevelt sẽ đưa quốc gia lâm vào một cuộc chiến không cần thiết với Đức. Ông thành công trong việc hối thúc Quốc hội thông qua luật tuyển mộ quân dịch thời bình đầu tiên trong [[lịch sử Hoa Kỳ]] năm 1940 (luật này được gia hạn năm 1941 bằng một phiếu ở Quốc hội). Roosevelt được "Ủy ban Phòng vệ Mỹ bằng cách Trợ giúp Đồng minh" ủng hộ nhưng bị "Ủy ban Mỹ trên hết" phản đối.<ref name="committees">{{Chú thích web |url=http://findingaids.princeton.edu/collections/MC011|titletiêu đề=Committee to Defend America By Aiding the Allies Records, 1940-1942: Finding Aid|publishernhà xuất bản=Princeton University Library |accessdatengày truy cập = ngày 20 tháng 7 năm 2015}}</ref>
 
Roosevelt dùng uy tín cá nhân của mình để xây dựng sự ủng hộ cho việc can thiệp của Hoa Kỳ. Nước Mỹ phải là "Kho thuốc đạn dân chủ", đó là lời phát biểu của ông trên sóng truyền thanh đến dân chúng Mỹ trong chương trình "fireside chats".<ref>[[s:Roosevelt's Fireside Chat, 29 tháng 12 năm 1940|Full text of the speech]] from Wikisource.</ref> Ngày 2 tháng 9 năm 1940, Roosevelt công khai thách thức các đạo luật trung lập bằng việc ký hiệp ước trao 50 chiếc [[tàu khu trục|khu trục hạm]] cho Anh Quốc để đổi lấy quyền sử dụng các căn cứ hải quân của Anh Quốc tại các đảo thuộc Anh Quốc trong vùng [[biển Caribe]] và [[Newfoundland]]. Đây là một dấu hiệu báo trước sự ra đời của Hiệp ước Lend-Lease vào tháng 3 năm 1941, khởi sự cuộc viện trợ kinh tế và quân sự khổng lồ trực tiếp cho Anh Quốc, Trung Hoa và sau đó là [[Liên Xô]]. Để nhận ý kiến cố vấn về chính sách ngoại giao, Roosevelt nhờ đến [[Harry Hopkins]], người sau đó trở thành cố vấn chính của ông trong thời chiến. Họ tìm những phương sách mới để giúp Anh Quốc vì các nguồn tài chính của Anh Quốc đã cạn kiệt vào cuối năm 1940. Quốc hội Hoa Kỳ, nơi mà tiếng nói của chủ nghĩa biệt lập đã tắt tiếng, thông qua [[Đạo luật Lend-Lease]] vào tháng 3 năm 1941, cho phép Hoa Kỳ cung cấp vũ khi quân trang cho Anh Quốc, Trung Hoa và sau đó là Liên Xô. Quốc hội bỏ phiếu tán thành việc chi tiêu $50 tỷ đô la quân viện từ năm 1941–45. Có sự tương phản lớn so với tiền mà Hoa Kỳ cho vay mượn trong thời [[Chiến tranh thế giới thứ nhất]], viện trợ quân sự này không phải trả lại sau chiến tranh. Roosevelt là một người suốt đời ủng hộ sự [[tự do mậu dịch]] và chống đối [[chủ nghĩa đế quốc]] cho nên việc kết thúc [[chủ nghĩa thuộc địa]] của [[châu Âu]] là một trong những mục tiêu của ông.
Dòng 302:
Ngày 4 tháng 12 năm 1941, tờ báo ''[[Chicago Tribune|The Chicago Tribune]]'' tiết lộ "Rainbow Five", một kế hoạch chiến tranh tối mật được phác thảo theo lệnh của Tổng thống Franklin Roosevelt. Kế hoạch "Rainbow Five" kêu gọi tập hợp một lực lượng lục quân gồm 10 triệu binh sĩ nhằm tiến công vào [[châu Âu]] trong năm 1943, chiến đấu bên cạnh Anh Quốc và Liên Xô.<ref>{{chú thích sách |last=Fleming|first=Thomas |title=The New Dealers' War|publisher=Basic Books|năm=2001|place=New York|trang=1}}</ref>
 
Ngày 25 tháng 11, Bộ trưởng Chiến tranh Hoa Kỳ [[Henry L. Stimson]] có viết trong nhật ký rằng ông đã thảo luận với Roosevelt về khả năng lớn xảy ra chiến tranh không thể tránh khỏi với Nhật Bản và rằng "chúng ta nên phải làm sao để đưa họ (người Nhật) vào thế khai hỏa trước mà không gây nhiều tổn thất và nguy hiểm cho chúng ta.'"<ref>{{chú thích sách|author=Cumings|title=Bruce: "Parallax Visions: Making Sense of American-East Asian Relations|publisher=Duke|năm=1999|trang=47}}</ref><ref>{{chúChú thích web|url=http://www.time.com/time/magazine/article/0,9171,792673,00.html|titletiêu đề=PEARL HARBOR: HENRY STIMSON'S VIEW|publishernhà xuất bản=[[Time (tạp chí)|Time Magazine]]|datengày tháng=1 tháng 4 năm 1946}}</ref>
 
Trợ tá hành chính của Roosevelt vào lúc đó, Jonathan Daniels, đã ghi lại phản ứng của Roosevelt sau vụ tấn công của Nhật Bản vào Trân Châu Cảng như sau - "Cú đánh nặng hơn những gì mà ông (Roosevelt) từng hy vọng đến sự cần thiết của nó.... Nhưng những rủi ro này được đền bù; thậm chí mất mát cũng đáng giá...."<ref>{{chú thích sách|title=''1941: Pearl Harbor Sunday: The End of an Era,'' in "The Aspirin Age - 1919-1941," edited by Isabel Leighton|publisher=Simon and Schuster|place=New York|năm=1949|trang=490}}</ref>
Dòng 345:
 
=== Bầu cử 1944 ===
Roosevelt bắt đầu tuổi 62 vào năm 1944. Sức khỏe của ông càng xuống thấp, ít nhất là từ năm 1940. Trạng thái căng thẳng của bệnh bại liệt và sự gắng sức chịu đựng của ông trong suốt trên 20 năm cộng thêm những năm làm việc căng thẳng và cả đời hút thuốc đã làm hao mòn sức khỏe của ông. Vào thời gian này, Roosevelt bị nhiều thứ bệnh tật trong đó có [[bệnh cao máu]], phổi thủng, [[xơ vữa động mạch]] và các bệnh về tim mạch.<ref>{{chúChú thích web|lasthọ 1=Lerner|firsttên 1=Barron H. |url=http://hnn.us/articles/40225.html|titletiêu đề=How Much Confidence Should We Have in the Doctor's Account of FDR's Death?|publishernhà xuất bản=Hnn.us|datengày tháng = ngày 12 tháng 4 năm 1945 |accessdatengày truy cập=7 tháng 2 năm 2010}}</ref> Mặc dù chưa được xác nhận và công chúng không hề hay biết, có tin lan truyền rằng ông cũng bị mổ để lấy khối u ác tính phía trên mắt trái.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.foxnews.com/story/0,2933,581800,00.html?test=latestnews|titletiêu đề=Franklin D. Roosevelt Kept Deadly Disease Hidden for Years - Local News &#124; News Articles &#124; National News &#124; US News |publishernhà xuất bản=FOXNews.com|datengày tháng=3 tháng 1 năm 2010|accessdatengày truy cập=7 tháng 2 năm 2010}}</ref> Bác sĩ Emanuel Libman, lúc đó là phụ tá nghiên cứu bệnh học ở [[Bệnh viện Núi Sinai, New York|Bệnh viện Núi Sinai]] tại Thành phố New York có nói như sau vào năm 1944: "Không cần biết Roosevelt có được tái đắc cử hay không thì ông cũng sẽ chết vì chảy máu vỏ não trong vòng 6 tháng" (đúng như vậy ông mất chỉ 5 tháng sau đó).<ref>[http://www.patient.co.uk/showdoc/40024946/ Patient.co.uk: Libman-Sacks Endocarditis]. Truy cập 2008-08-11.</ref>
 
Biết rõ nguy cơ là Roosevelt sẽ chết trong nhiệm kỳ thứ tư nên các đảng viên thường trực của Đảng Dân chủ cứ một mực muốn bỏ Phó Tổng thống [[Henry A. Wallace]] vì ông được cho là thân Liên Xô. Sau khi xem xét qua [[James F. Byrnes]] của tiểu bang [[Nam Carolina]], rồi bị Thống đốc [[Indiana]] là [[Henry F. Schricker]] từ chối, Roosevelt thay thế Wallace bằng một thượng nghị sĩ ít tiếng tăm là [[Harry S. Truman]]. Trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1944, liên danh Roosevelt và Truman thắng 53% phiếu bầu phổ thông và thắng tại 36 tiểu bang chống lại đối thủ là Thống đốc New York, [[Thomas E. Dewey]].
Dòng 351:
==Nhiệm kỳ thứ tư và từ trần, 1945 ==
===Những ngày cuối, từ trần và tưởng niệm===
Tổng thống Hoa Kỳ rời [[Hội nghị Yalta]] ngày 12 tháng 2 năm 1945, bay đến [[Ai Cập]] và lên chiếc tuần dương hạm [[USS Quincy (CA-71)|USS Quincy]] đang hoạt động trên [[Hồ Great Bitter]] gần [[Kênh đào Suez]]. Ngày hôm sau, trên tuần dương hạm ''Quincy'', ông gặp Quốc vương Ai Cập là [[Farouk I]] và Hoàng đế [[Ethiopia]] là [[Haile Selassie]]. Vào ngày [[14 tháng 2]], ông mở một cuộc họp lịch sử với vua Abdulaziz - vị vua khai quốc của [[Ả Rập Xê Út]]. Đây là một cuộc họp mang ý nghĩa trọng đại trong quan hệ ngoại giao giữa Hoa Kỳ và Ả Rập Xê Út thậm chí cho đến ngày nay.<ref name=saudi>{{chúChú thích web|url=http://susris.com/2005/02/13/sailor-was-the-piper-of-history-fdrabdulaziz-meeting/|titletiêu đề=Sailor was the piper of history – FDR/Abdulaziz Meeting|publishernhà xuất bản=Saudi-US relations Information Service|accessdatengày truy cập = ngày 2 tháng 3 năm 2008}}</ref> Sau một cuộc họp cuối cùng giữa F.D.Roosevelt và Thủ tướng Anh Quốc [[Winston Churchill]], USS ''Quincy'' khởi hành đi [[Algérie]] và đến nơi ngày 18 tháng 2. Ngày hôm đó, Roosevelt hội ý với các đại sứ Mỹ đặc trách Anh Quốc, Pháp và Ý.<ref name="quincy">{{Chú thích web |url=http://www.multied.com/Navy/cruiser/Quincy.html|titletiêu đề=USS Quincy CA-71 |publishernhà xuất bản=Navy History |accessdatengày truy cập = ngày 2 tháng 3 năm 2008}}</ref> Tại Yalta, Lord Moran, y sĩ của Winston Churchill, nói về bệnh tình của Roosevelt như sau: "Bệnh tình của ông rất là nặng. Ông có tất cả triệu chứng của bệnh xơ cứng mạch máu não trong thời kỳ cuối, vì vậy tôi cho rằng ông chỉ còn sống vài tháng".<ref>{{Chú thích sách|title= Franklin Delano Roosevelt|author=Conrad Black|năm=2005|publisher=Public Affairs|isbn=9781586482824|trang=1075}}</ref>
 
[[Tập tin:Franklin D. Roosevelt with King Ibn Saud aboard USS Quincy (CA-71), 14 February 1945 (USA-C-545).jpg|nhỏ|trái|Roosevelt hội kiến với Vua Abdulaziz của [[Ả Rập Xê Út]] trên chiến hạm [[USS Quincy (CA-71)|USS ''Quincy'']] trên [[Hồ Great Bitter]]]]
 
Khi ông trở về Hoa Kỳ, ông đọc diễn văn trước Quốc hội ngày 1 tháng 3 về Hội nghị Yalta,<ref name=congress45>{{chúChú thích web|datengày tháng = ngày 1 tháng 3 năm 1945 |url=http://www.ibiblio.org/pha/policy/1945/450301a.html|titletiêu đề=President Roosevelt's Report To Congress On the Crimea Conference|publishernhà xuất bản=New York Times |accessdatengày truy cập = ngày 2 tháng 3 năm 2008}}</ref> và nhiều người đã phải giật mình khi nhận thấy ông trông rất già và ốm yếu. Ông phải ngồi để đọc diễn văn trong Quốc hội. Đây là một điều nhượng bộ của ông chưa từng có trước đây đối với sự bất lực của cơ thể mình (ông mở đầu bài diễn văn bằng lời nói như sau: "Tôi hy vọng mọi người sẽ tha thứ cho tôi vì phải ngồi đây một cách bất thường để diễn thuyết những gì tôi muốn nói, nhưng...nó giúp cho tôi dễ dàng hơn khi không phải đeo khoảng 10 pound thép quanh phía dưới chân tôi." Đây là lần duy nhất ông nhắc đến sự tàn phế của mình trước đám đông). Nhưng tinh thần của ông vẫn hoàn toàn tỉnh táo. "Hội nghị Crimean", ông nhấn mạnh, "phải nêu rõ mục tiêu kết thúc một hệ thống hành động đơn phương, những liên minh biệt lập, những khu vực ảnh hưởng, những cán cân quyền lực, và tất cả những mưu mô khác đã được thử nghiệm hàng thế kỷ qua – và luôn bị thất bại. Chúng ta đề nghị thay thế tất cả những thứ này bằng một tổ chức toàn cầu mà ở đó tất cả các quốc gia yêu chuộng hòa bình cuối cùng có cơ hội tham gia vào."<ref>{{Chú thích sách|title=Franklin D. Roosevelt and American Foreign Policy, 1932–1945|author=Robert Dallek|năm=1995|trang=520}}</ref>
 
Suốt tháng 3 năm 1945, ông gửi các thông điệp đến Stalin với những lời lẽ đanh thép, tố cáo Stalin phá vỡ những thỏa thuận thực thi của vị lãnh tụ Liên Xô tại Hội nghị Yalta về Ba Lan, Đức, tù binh, và các vấn đề khác. Khi Stalin tố cáo Đồng minh phương Tây đang mưu toan tìm kiếm hòa bình riêng với Hitler phía sau lưng vị lãnh tụ này, Roosevelt trả lời rằng: "Tôi không thể nào mà không có một cảm giác tức giận đối với những người chỉ điểm cho ông, bất cứ họ là ai, vì đã diễn đạt lại sai một cách đê hèn như thế về những hành động của tôi hay hành động của những thuộc cấp đáng tin của tôi."<ref>{{Chú thích sách|title=War in Italy 1943–1945|author=Richard Lamb|năm=1996|trang=287}}</ref>
Dòng 375:
 
==Vấn đề nhân quyền==
Hồ sơ nhân quyền của Roosevelt đã và đang là đề tài của nhiều tranh cãi. Đối với những nhóm người thiểu số lớn, đặc biệt là [[người Mỹ gốc Phi|người Mỹ gốc châu Phi]], người [[Công giáo]], và người [[Do Thái]], ông là người hùng và ông đã thành công cao độ trong việc lôi cuốn đa số cử tri từ các nhóm vừa kể thành [[liên minh New Deal]] của ông.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.jcpa.org/jl/vp509.htm|titletiêu đề=Jewish Vote in U.S. Elections|publishernhà xuất bản=Jcpa.org|accessdatengày truy cập = ngày 7 tháng 2 năm 2010}}</ref>
 
Người Mỹ gốc châu Phi và người bản thổ Mỹ<ref>See [[Indian Reorganization Act]] và [[Civilian Conservation Corps#Indian Division]]</ref> có cuộc sống ổn định nhờ vào các chương trình cứu trợ New Deal. Sitkoff (1978) tường trình rằng Cơ quan Quản trị Tiến triển Xây dựng Công chánh (WPA) "đã cung cấp một sàn kinh tế cho toàn cộng đồng người da màu trong thập niên 1930, có thể nói đáng so sánh với cả ngành nông nghiệp và dịch vụ giúp việc nhà trong vai trò là nguồn thu nhập chính".<ref>Harvard Sitkoff, ''A New Deal for Blacks'' (1978) p. 71</ref><ref>Gần như tất cả các sử gia đều đồng ý rằng người da đen đã có một bước dài vĩ đại trong thập niên 1930. Một người ngoại lệ là [[Jim Powell (sử gia)|Jim Powell]], một người bảo thủ không ưa thích Chương trình New Deal, nói rằng, "Người da đen nằm trong số những nạn nhân chính của Chương trình New Deal." See [http://reason.com/archives/2004/10/01/bad-deal Damon W. Root|How FDR made life worse for African Americans.|Reason|October 4th, 2004]</ref>
 
Vì Roosevelt cần sự ủng hộ của các đảng viên Dân chủ miền [[Nam Hoa Kỳ]] cho các chương trình thuộc New Deal nên ông đã quyết định không hối thúc đưa ra quy trình làm luật chống "lynching" (''là hình thức giết người không qua xét xử, được thực hiện bởi một nhóm người, thường là treo cổ nạn nhân''). Ông sợ một hành động như thế có thể đe dọa đến khả năng thông qua các chương trình ưu tiên cao nhất của ông - cho dù ông đã lên án "lynching" như là một hình thức hợp tác giết người hèn hạ".<ref>{{chúChú thích web|url=https://books.google.com.vn/books?id=IgBuOLXb_1cC&pg=SL1-PA143&lpg=SL1-PA143&dq=University+Publications+of+America::+Vol.+11:+FDR+and+Protection+from+Lynching,+1934-1945|titletiêu đề=University Publications of America:: Vol. 11: FDR and Protection from Lynching, 1934-1945|publishernhà xuất bản=Academic.lexisnexis.com |accessdatengày truy cập = ngày 7 tháng 2 năm 2010}}</ref>
 
Sử gia Kevin J. McMahon cho rằng các bước dài tiến triển trong thời kỳ này đã là nền tảng cho phong trào nhân quyền của người Mỹ gốc châu Phi. Trong [[Bộ Tư pháp Hoa Kỳ|Bộ Tư pháp]] của chính phủ Roosevelt, Bộ phận Nhân quyền cùng làm việc bên cạnh với [[Hội Quốc gia vì Tiến bộ của Người da màu]] (NAACP). Roosevelt làm việc với các nhóm nhân quyền khác trong các trường hợp đối phó với sự hung bạo của cảnh sát, các vụ hợp tác hành quyết nạn nhân, và các vụ vi phạm quyền đầu phiếu. Người ta cho rằng các hành động này đã gởi một thông điệp mãnh liệt đến những kẻ theo [[chủ nghĩa da trắng ưu việt]] (''white supremacist'') ở miền Nam Hoa Kỳ và các đồng minh chính trị của bọn họ ở thủ đô Washington.<ref>Kevin J. McMahon, Reconsidering Roosevelt on Race: How the Presidency Paved the Road to Brown, Chicago: University of Chicago Press, 2004</ref>
Dòng 385:
Bắt đầu vào thập niên 1960, FDR bị buộc tội<ref>Trong các tác phẩm như ''While Six Million Died: A Chronicle of American Apathy'' (New York, 1968) của Arthur Morse, ''Paper Walls: America and the Refugee Crisis, 1938–1941'' (1968) của David S. Wyman, và ''The Politics of Rescue: The Roosevelt Administration and the Holocaust, 1938–1945'' (1970) của Henry L. Feingold</ref> là đã không hành động đủ quyết đoán để đề phòng hoặc ngăn chặn được cái mà người ta gọi là '''Holocaust''' (''hủy diệt con người''). Những người chỉ trích kể ra một số trường hợp, thí dụ như tình tiết năm 1939 mà qua đó có 936 người tỵ nạn Do Thái trên chiếc tàu [[SS St. Louis|SS ''St. Louis'']] bị từ chối nhận vào nương náu tại Hoa Kỳ vì các luật hạn chế mà Quốc hội thông qua.
 
Roosevelt đã không sẵn lòng bãi bỏ lệnh [[cách ly chủng tộc]] trong [[Quân đội Hoa Kỳ|quân đội]]. Tuy nhiên vào ngày 25 tháng 6 năm 1941, Roosevelt ký ban hành Lệnh Hành pháp số 8802, nghiêm cấm kỳ thị dựa vào "chủng tộc, tín ngưỡng, màu da, hay nguồn gốc quốc gia" trong việc thê mướn công nhân làm việc trong các ngành công nghiệp có liên quan đến quốc phòng.<ref>{{chúChú thích web|url=http://teachingamericanhistory.org/library/index.asp?document=547|titletiêu đề=Executive Order 8802 by Franklin D. Roosevelt|publishernhà xuất bản= Teachingamericanhistory.org|datengày tháng=25 tháng 6 năm 1941|accessdatengày truy cập = ngày 7 tháng 2 năm 2010}}</ref><ref>{{chúChú thích web|url=http://www.classbrain.com/artteenst/publish/article_71.shtml|titletiêu đề=Executive Order 8802|publishernhà xuất bản=Classbrain.com|accessdatengày truy cập = ngày 7 tháng 2 năm 2010}}</ref>
[[Tập tin:Photograph of Members of the Mochida Family Awaiting Evacuation - NARA - 537505.jpg|nhỏ|phải|Người lớn và trẻ em người Mỹ gốc Nhật bị gởi vào các trại tập trung (Hình của nhiếp ảnh gia [[Dorothea Lange]], Hayward, California năm 1942)]]
 
Dòng 499:
Roosevelt đã thiết lập vững chắc vị thế lãnh đạo của Hoa Kỳ trên sân khấu thế giới với những tuyên ngôn như trong diễn văn "[[Bốn Tự do]]" của ông, tao ra một nền tảng cơ bản cho vai trò tích cực của Hoa Kỳ trongChiến tranh thế giới thứ hai và sau đó.
 
Năm [[1945]], Roosevelt được sử gia [[Na Uy]], [[Halvdan Koht]] nhắc đến là một trong số 7 người hội đủ điều kiện để được đề cử nhận [[Giải Nobel Hòa bình]]. Tuy nhiên, sử gia này lại không đề cử bất cứ ai. Người thật sự được đề cử là [[Cordell Hull]].<ref>{{chúChú thích web|url= http://nobelprize.org/nomination/peace/nomination.php?action=show&showid=3319 |titletiêu đề=Record from The Nomination Database for the Nobel Prize in Peace, 1901-1956|publishernhà xuất bản=[[Nobel Foundation]]}}{{dead link|date=tháng 8 năm 2010|accessdate = ngày 14 tháng 5 năm 2010}}</ref>
 
Sau khi Franklin qua đời, Eleanor Roosevelt tiếp tục hiện diện miễn cưỡng trong nền chính trị thế giới và Hoa Kỳ, phục vụ với tư cách một đại biểu dự hội nghị thành lập [[Liên Hiệp Quốc]] và tiên phong tranh đấu cho nhân quyền. Nhiều thành viên chính phủ của ông đã đóng vai trò lãnh đạo trong các chính phủ tiếp theo của các tổng thống [[Harry S. Truman|Truman]], [[John F. Kennedy|Kennedy]] và [[Lyndon B. Johnson|Johnson]]. Mỗi vị tổng thống này đều tiếp tục ôm ấp di sản chính trị của Roosevelt.<ref>{{chú thích sách|author=William E Leuchtenburg|title=In the Shadow of FDR: From Harry Truman to George W. Bush|năm=2001}}</ref>
Dòng 510:
 
==Ủng hộ viên của Hướng đạo==
Roosevelt là một người rất tích cực ủng hộ [[hướng đạo]], bắt đầu từ năm 1915. Năm 1924, ông trở thành chủ tịch Quỹ hội Hướng đạo Thành phố New York và lãnh đạo việc thành lập Trại Hướng đạo Sông Ten Mile từ năm 1924–1928 để phục vụ các hướng đạo sinh của Thành phố New York.<ref>{{chúChú thích web|titletiêu đề=History of the Ten Mile River Scout Camps|publishernhà xuất bản=TMR Scout Museum |url=http://tmrmuseum.org/history/history-1924-1969.htm|accessdatengày truy cập = ngày 15 tháng 2 năm 2008}}</ref> Khi làm thống đốc năm 1930, [[Hội Nam Hướng đạo Mỹ]] (BSA) đã vinh danh ông bằng giải thưởng cao nhất của họ dành cho người lớn, đó là [[Giải Trâu Bạc]] được tặng thưởng để ghi công sự đóng góp ủng hộ xuất sắc mà người được tặng thưởng dành cho giới trẻ trên cấp bậc quốc gia.<ref>{{Chú thích báo|title=Roosevelt Honored by the Boy Scouts|date=24 tháng 8 năm 1930|publisher=[[The New York Times]] |url=http://select.nytimes.com/gst/abstract.html?res=F00F15F8355C1B728DDDAD0A94D0405B808FF1D3&scp|trang=21|accessdate = ngày 22 tháng 4 năm 2008}}</ref> Sau này, khi làm tổng thống, Roosevelt là chủ tịch vinh dự của Hội Nam Hướng đạo Mỹ và tham dự [[trại họp bạn]] toàn quốc đầu tiên được tổ chức tại [[Washington, D.C.]] năm 1937.<ref>{{chúChú thích web|url=http://www.scoutingmagazine.org/issues/0303/d-wwas.html |lasthọ 1=Campbell|firsttên 1=Thomas P.|yearnăm=2003|titletiêu đề=A Best Friend in the White House|work=[[Scouting (tạp chí)|Scouting]]|publishernhà xuất bản=Boy Scouts of America}}</ref>
 
==Nhà sưu tầm tem==