Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chiến dịch Nguyễn Huệ”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →Giai đoạn 1 - Lộc Ninh - Xa Mát - Phước Bình: clean up using AWB |
n clean up |
||
Dòng 66:
Ngày [[13 tháng 4]], An Lộc bị bao vây và chịu một cuộc tấn công hiệp đồng giữa tăng-pháo và bộ đội Công Trường 9. Bảo vệ quân phòng thủ là những trận mưa [[rốc két|rốc-két]], [[bom]], và [[napan|napalm]] từ các máy bay của Mỹ và Không lực Việt Nam Cộng hòa. Trong thị xã, các cố vấn Mỹ trở nên đóng vai trò cốt tử cho việc chỉ huy lực lượng phòng thủ<ref>Andrade, Dale. ''Trial By Fire: The 1972 Easter Offensive, America's Last Vietnam Battle''. New York: Hippocrene Books, 1995. tr. 439.</ref>, họ tổ chức hỏa lực và hỗ trợ từ không lực, hậu cần, và thông tin tình báo. Trong khi đó, sự do dự trong phản công và sự phụ thuộc vào hỏa lực không quân của tướng Hưng, chỉ huy của lực lượng phòng thủ đã làm cho thiếu tá William Miller, cố vấn cao cấp người Mỹ, nhận xét rằng: "Ông ấy mệt mỏi - không kiên định - phi lý - dễ cáu - không nghe lời khuyên - và không tiếp cận được<ref>"He is tired - unstable - irrational - irritable - inadvisable - and unapproachable." Andrade, Dale. ''Trial By Fire: The 1972 Easter Offensive, America's Last Vietnam Battle''. New York: Hippocrene Books, 1995. tr. 439.</ref>
Các cuộc tấn công của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam vẫn tiếp diễn và cuối cùng họ cũng vào được thị xã, chiến sân bay và thu hẹp vùng kiểm soát của QLVNCH xuống còn khoảng 1
Bên cạnh hiệp đồng yếu, khó khăn chính cho Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam là mưa bom đạn liên tục đổ xuống từ các cuộc không kích, gây ra thương vong lớn và gây khó khăn cho hậu cần. Sau thất bại của cuộc tấn công ngày 21 tháng 4, trận chiến chuyển thành một cuộc bao vây mà trong đó pháo binh Miền bắn phá An Lộc từ 1200 đến 2000 viên pháo cối mỗi ngày.<ref>Maj A.J.C. Lavalle, ''Air Power and the 1972 Spring Invasion''. Washington DC: Office of Air force History, 1985, tr. 86.</ref> An Lộc bị bao vây hoàn toàn và chỉ có thể được tiếp viện qua đường không, một tình thế càng khó khăn hơn do việc mất sân bay. Tuy nhiên, không quân đã tiếp viện được 448 phi vụ, chuyển 2693 tấn lương thực, thuốc men, và vũ khí đạn dược.<ref>Gen [[William W. Momyer]], ''The Vietnamese Air Force''. Washington DC: Office of Air Force History, 1975, tr. 50.</ref>
Dòng 121:
==Chú thích==
{{
==Tham khảo==
|