Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Mùa xuân Praha”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
n clean up
Dòng 13:
Tháng 6 năm 1967, một phái nhỏ trong Hội nhà văn Séc có thiện cảm với những người xã hội chủ nghĩa cấp tiến, đặc biệt là [[Ludvík Vaculík]], [[Milan Kundera]], [[Jan Procházka]], [[Antonín Jaroslav Liehm]], [[Pavel Kohout]] và [[Ivan Klíma]].<ref name="Williams55"/> Vài tháng sau, tại một cuộc họp của đảng, một quyết định cần phải có biện pháp hành chính chống lại các tác giả công khai thể hiện ủng hộ sự cải cách được đưa ra. Bởi chỉ có một phần nhỏ của hội ủng hộ điều này, các thành viên còn lại được tin cậy để kỷ luật những người đồng nghiệp của họ.<ref name="Williams55"/> Quyền kiểm soát với ''Literární noviny'' và nhiều nhà xuất bản khác được chuyển cho bộ văn hoá,<ref name="Williams55"/> và thậm chí các thành viên của đảng sau này là những nhà cải cách chính—gồm cả Dubček—tán thành các động thái đó.<ref name="Williams55">Williams (1997), p 55</ref>
 
[[Czechoslovakia: 1948 - 1968|Đầu thập niên 1960]], Tiệp Khắc, khi ấy có tên chính thức là [[Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Tiệp Khắc]] (ČSSR), trải qua một cuộc suy giảm kinh tế.<ref>{{chúChú thích web
| titletiêu đề = Photius.com, (info from CIA world Factbook)
| url = http://www.photius.com/countries/slovakia/economy/czechoslovakia_economy_economic_policy_and_~777.html
| publishernhà xuất bản = Photius Coutsoukis
| accessdatengày truy cập = ngày 20 tháng 1 năm 2008}}</ref> Mô hình công nghiệp hoá của Liên xô bị áp dụng một cách kém cỏi vào Tiệp Khắc. Tiệp Khắc đã khá công nghiệp hoá từ trước [[Chiến tranh thế giới thứ hai|Thế chiến II]] và mô hình Liên xô chủ yếu chỉ tính đến những nền kinh tế kém phát triển. Nỗ lực của Novotný nhằm tái cơ cấu nền kinh tế, mô hình Kinh tế mới năm 1965, cũng thúc đẩy nhu cầu cải cách chính trị.<ref name="Williams5">Williams (1997), p 5</ref>
 
Tới năm 1967, chủ tịch Antonín Novotný mất sự ủng hộ. Bí thư thứ nhất của [[Đảng Cộng sản Slovakia (1939)|Đảng cộng sản Slovakia]], Alexander Dubček, và nhà kinh tế [[Ota Šik]] lên tiếng phản đối ông tại Uỷ ban Trung ương, và Dubček đã mời thủ tướng Liên xô [[Leonid Ilyich Brezhnev|Leonid Brezhnev]] tới [[Praha]] vào tháng 12 năm ấy.<ref>Navrátil (2006), pp 18–20</ref> Brezhnev ngạc nhiên trước mức độ sự phản đối chống lại Novotný và ủng hộ việc loại bỏ ông khỏi chức lãnh đạo Tiệp Khắc. Nhờ thế Dubček lên thay Novotný trở thành Bí thư thứ nhất ngày 5 tháng 1 năm 1968.<ref>Navazelskis (1990)</ref> Ngày 22 tháng 3 năm 1968, Novotný từ chức chủ tịch và bị thay thế bởi [[Ludvík Svoboda]], người sau này cho phép cuộc cải cách diễn ra.<ref>{{chúChú thích web
| titletiêu đề = Antonin Novotný Biography
| url = http://www.hrad.cz/en/prezident_cr/novotny.shtml
| publishernhà xuất bản = Libri publishing house
| accessdatengày truy cập = ngày 20 tháng 1 năm 2007}}</ref>
 
== Tự do hoá và cải cách ==
Dòng 30:
Nhân kỷ niệm lần thứ 20 của "[[Đảo chính Tiệp Khắc năm 1948|Tháng 2 thắng lợi]]", Dubček đã có một bài diễn văn giải thích sự cần thiết phải thay đổi sau thắng lợi của chủ nghĩa xã hội. Ông nhấn mạnh nhu cầu "tăng cường vai trò lãnh đạo của đảng một cách hiệu quả hơn nữa"<ref name="Navratil52"/> và thừa nhận rằng, dù có những hối thúc của [[Klement Gottwald]] nhằm có quan hệ tốt hơn với xã hội, Đảng quá thường xuyên can thiệp sâu vào các vấn đề nhỏ. Dubček tuyên bố sứ mệnh của đảng là "xây dựng một xã hội xã hội chủ nghĩa tiên tiếp trên những nền tảng kinh tế lành mạnh... một chủ nghĩa xã hội tương thích với các truyền thống dân chủ lịch sử của Tiệp Khắc, tương ứng với kinh nghiệm của các đảng cộng sản khác..."<ref name="Navratil52">Navrátil (2006), pp 52–54</ref>
 
Tháng 4, Dubček đưa ra một "[[Chương trình hành động (1968)|Chương trình hành động]]" tự do hoá, gồm tăng tự do cho báo chí, tự do ngôn luận và tự do di chuyển, với sự nhấn mạnh kinh tế trên [[hàng hoá tiêu dùng]] và khả năng một chính phủ đa đảng. Chương trình dựa trên quan điểm rằng "Chủ nghĩa xã hội không thể chỉ có nghĩa là giải phóng người lao động khỏi sự thống trị của tầng lớp bóc lột, mà phải tính xa hơn nữa tới một cuộc sống đầy đủ hơn cho cá nhân hơn bất kỳ tại một chế độ dân chủ tư sản nào."<ref>Ello (1968), pp 32, 54</ref> Chương trình sẽ giới hạn quyền lực của công an chìm<ref>{{chúChú thích web
| lasthọ = Von Geldern
| firsttên = James
| last2họ 2 = Siegelbaum
| first2tên 2 = Lewis
| publishernhà xuất bản = Soviethistory.org
| titletiêu đề = The Soviet-led Intervention in Czechoslovakia
| url = http://soviethistory.org/index.php?action=L2&SubjectID=1968czechoslovakia&Year=1968
| accessdatengày truy cập = ngày 7 tháng 3 năm 2008}}</ref> và dự định [[Luật lập hiến liên bang|liên bang hoá]] ČSSR thành hai nước cộng hoà có vị thế như nhau.<ref name="Auto">Hochman, Dubček (1993)</ref> Chương trình cũng có đề cập tới chính sách đối ngoại, gồm cả việc duy trì mối quan hệ tốt với các nước phương Tây và hợp tác với [[Liên Xô|Liên xô]] và các quốc gia cộng sản khác.<ref name="Library">{{chú thích báo
| last = Dubček
| first = Alexander
Dòng 52:
Tuy nhiên, những người soạn thảo Chương trình, đã thận trọng không chỉ trích các hành động của chế độ cộng sản thời hậu chiến, chỉ ra các chính sách mà họ cho là đã lỗi thời và không còn tác dụng.<ref name="Doc">Ello (1968), pp 7–8, 129–30, 9, 131</ref> Ví dụ, tình hình ngay sau chiến tranh cần "các biện pháp hành chính tập trung và mệnh lệnh"<ref name="Doc"/> để chống lại "các tàn tích của giới [[tư sản]]."<ref name="Doc"/> Bởi "các tầng lớp đối kháng"<ref name="Doc"/> được cho là đã bị đánh bại với sự thành công của chủ nghĩa xã hội, những biện pháp đó không còn cần thiết nữa. Cải cách là cần thiết, Chương trình viết, để nền kinh tế Tiệp Khắc gia nhập "cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật trên thế giới"<ref name="Doc"/> chứ không phải dựa vào nền [[công nghiệp nặng]], nhân lực, và vật liệu thô như thời Stalin.<ref name="Doc"/> Hơn nữa, bởi cuộc xung đột trong nội bộ giai cấp đã không còn nữa, những người công nhân hiện đã có thể hoàn toàn được tưởng thưởng cho chất lượng công việc và khả năng của mình mà không hề trái ngược với Chủ nghĩa Mác-Lenin. Chương trình cho rằng đó là thời điểm cần thiết để việc đảm nhận vị trí quan trọng phải được thực hiện bởi "các chuyên gia có khả năng, được giáo dục xã hội chủ nghĩa" nhằm cạnh tranh với chủ nghĩa tư bản.<ref name="Doc"/>
 
Dù Chương trình hành động cho rằng cải cách phải được tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Tiệp Khắc, áp lực của dân chúng lên cao đòi thực hiện cải cách ngay lập tức.<ref>{{chúChú thích web
| lasthọ = Derasadurain
| firsttên = Beatrice
| titletiêu đề = Prague Spring
| url = http://library.thinkquest.org/C001155/noframes/summary_spring.htm
| accessdatengày truy cập = ngày 23 tháng 1 năm 2008 |publishernhà xuất bản=thinkquest.org }}</ref> Các thành viên cấp tiến trở nên to mồm hơn: những cuộc bút chiến chống Liên xô xuất hiện trên báo chí (sau khi chính thức bãi bỏ kiểm duyệt ngày 26 tháng 6 năm 1968),<ref name="Postwar"/> [[Đảng Dân chủ Xã hội Séc|Những người Dân chủ Xã hội]] bắt đầu thành lập một đảng riêng biệt, và những câu lạc bộ chính trị mới phi đảng phái được lập ra. Những người thân Liên Xô trong đảng hối thúc các biện pháp trấn áp, nhưng Dubček không có hành động thái quá và tái nhấn mạnh sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.<ref>Kusin (2002), p 107–122</ref> Tại cuộc họp của Đoàn chủ tịch [[Đảng Cộng sản Tiệp Khắc]] vào tháng 4, Dubček thông báo một chương trình chính trị "chủ nghĩa xã hội với khuôn mặt người".<ref>{{chúChú thích web
| publishernhà xuất bản = Library of Congress
| url = http://www.country-studies.com/czech-republic/the-prague-spring,-1968.html
| titletiêu đề = The Prague Spring, 1968
| yearnăm = 1985
| accessdatengày truy cập = ngày 5 tháng 1 năm 2008}}</ref> Tháng 5, ông thông báo rằng Đại hội Đảng lần thứ 14 sẽ được nhóm họp một phiên sớm vào ngày 9 tháng 9. Đại hội sẽ đưa Chương trình hành động vào trong các nghị quyết của đảng, phác thảo một luận liên bang, và bầu ra một Uỷ ban Trung ương mới.<ref name="Williams 1997, p 156">Williams (1997), p 156</ref>
 
Các cuộc cải cách của Dubček đảm bảo quyền tự do của báo chí, và những lời bình luận chính trị lần đầu tiên được cho phép xuất hiện trên truyền thông chính thống.<ref name="KieranPress">Williams (1997), p 164</ref> Ở thời điểm phong trào Mùa xuân Praha, xuất khẩu của Tiệp Khắc đang suy giảm tính cạnh tranh, và những biện pháp cải cách của Dubček nhằm giải quyết vấn đề này bằng cách pha trộn [[kinh tế kế hoạch]] với [[kinh tế thị trường]]. Bên trong đảng, có những ý kiến về việc Kế hoạch phải diễn ra như thế nào; một số nhà kinh tế muốn có một nền [[kinh tế hỗn hợp]] mạnh hơn nữa trong khi những người khác muốn nền kinh tế tiếp tục hầu hết là chủ nghĩa xã hội. Dubček tiếp tục nhấn mạnh tầm quan trọng của cải cách kinh tế, được tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng.<ref>Williams (1997), pp 18–22</ref>
Dòng 70:
| first = Ludvík
| date = ngày 27 tháng 6 năm 1968 | title = Two Thousand Words
| publisher = Literární listy }}</ref> Dubček, Chủ tịch đảng, Mặt trận Quốc gia, và nội các bác bỏ bản tuyên ngôn này.<ref>{{chúChú thích web
| lasthọ = Mastalir
| firsttên = Linda
| titletiêu đề = Ludvík Vaculík: a Czechoslovak man of letters
| publishernhà xuất bản = Radio Prague
| datengày tháng = ngày 25 tháng 7 năm 2006 | url = http://www.radio.cz/en/article/81466
| accessdatengày truy cập = ngày 23 tháng 1 năm 2008}}</ref>
 
== Phản ứng của Liên xô ==
[[Tập tin:Brezhnev 1973.jpg|nhỏ|upright|trái|Leonid Brezhnev]]
Phản ứng ban đầu biên trong [[đông Âu|khối Cộng sản]] khá khác biệt. [[Kádár János|János Kádár]], lãnh đạo [[Cộng hoà nhân dân Hungary|Hungary]] nhiệt liệt ủng hộ việc chỉ định Dubček vào tháng 1, nhưng [[Leonid Ilyich Brezhnev|Leonid Brezhnev]] và những người khác ngày càng lo ngại về những cuộc cải cách của Dubček, mà họ sợ rằng có thể làm suy yếu vị thế của Khối Cộng sản trong thời [[Chiến tranh Lạnh]].<ref>Navrátil (2006), p 37</ref><ref name="trans">{{chúChú thích web
| titletiêu đề = Document #81: Transcript of Leonid Brezhnev's Telephone Conversation with Alexander Dubček, 13 tháng 8 năm 1968
| yearnăm = 1998
| url = http://www.gwu.edu/~nsarchiv/nsa/publications/DOC_readers/psread/doc81.htm
| work = The Prague Spring '68
| publishernhà xuất bản = The Prague Spring Foundation
| accessdatengày truy cập = ngày 23 tháng 1 năm 2008}}</ref><ref>Navrátil (2006), pp 172–181</ref>
 
Tại một cuộc họp ngày 23 tháng 3 tại Dresden, các lãnh đạo của nhóm "Warsaw Five" ([[Liên Xô|Liên xô]], Hungary, [[Cộng hoà Nhân dân Ba Lan|Ba Lan]], [[Lịch sử Bulgaria Cộng sản|Bulgaria]] và [[Cộng hòa Dân chủ Đức|Đông Đức]]) đặt câu hỏi với phái đoàn của Tiệp Khắc về các cuộc cải cách, cho rằng bất kỳ cuộc trò chuyện nào về "dân chủ hoá" đều là một lời chỉ trích công khai với các chính sách khác.<ref name="NavDresden">Navrátil (2006), pp 64–72</ref> [[Władysław Gomułka]] và Janos Kádár ít lo ngại hơn về các cuộc cải cách so với sự chỉ trích ngày càng tăng của truyền thông Tiệp Khắc, và lo lắng tình hình sẽ "giống như phần mở đầu của [[sự kiện năm 1956 ở Hungary|cuộc phản cách mạng Hungary]]".<ref name="NavDresden"/> Một số ngôn ngữ trong Chương trình hành động tháng 4 của Đảng Cộng sản Tiệp khắc đã được chọn ra để chứng minh rằng không có hành động phản cách mạng nào được sắp đặt, nhưng Kieran Williams cho rằng có lẽ Dubček ngạc nhiên, nhưng không bực bội về những đề xuất của Liên xô.<ref>Williams (1997), pp 10–11</ref>
Dòng 96:
=== Cuộc tấn công của Khối Hiệp ước Warsaw ===
{{chính|Khối Hiệp ước Warsaw tấn công Tiệp Khắc}}
Khi những cuộc đàm phán đó không mang lại kết quả như mong đợi, những người Liên Xô bắt đầu xem xét một hành động quân sự. Chính sách của Liên xô trấn áp các chính phủ các [[quốc gia vệ tinh]] buộc họ phải gắn các lợi ích quốc gia với các lợi ích của "[[Đông Âu|Khối Đông Âu]]" (thông qua hành động quân sự nếu cần thiết) bắt đầu được gọi là [[Học thuyết Brezhnev]].<ref>Chafetz (1993), p 10</ref> Đêm ngày 20-21 tháng 8 năm 1968, quân đội các nước thuộc khối Warszawa — Liên xô, [[Bulgaria]], [[Ba Lan]] và [[Hungary]]—xâm lược Tiệp Khắc.<ref>Ouimet (2003), pp 34–35</ref><ref name="Global">{{chúChú thích web
| titletiêu đề = Soviet Invasion of Czechoslovakia
| work = Military
| datengày tháng = ngày 27 tháng 4 năm 2005 | publishernhà xuất bản = GlobalSecurity.org
| url = http://www.globalsecurity.org/military/world/war/czechoslovakia2.htm
| accessdatengày truy cập = ngày 19 tháng 1 năm 2007}}</ref>
 
Đêm hôm đó, 200,000 lính Khối hiệp ước Warszawa và 2,000 xe tăng tiến vào Tiệp Khắc.<ref>[[The Washington Post|Washington Post]], (Final Edition), 21 tháng 8 năm 1968, p A11</ref> Đầu tiên họ chiếm [[Sân bay quốc tế Ruzyně]], nơi quân lính tiếp tục được không vận tới. [[Quuân đội Cộng hoà Séc|Các lực lượng Tiệp Khắc]] bị cấm trại và bị bao vây cho tới khi mối đe doạ về một cuộc phản công đã bị loại bỏ. Tới sáng ngày 21 tháng 8 Tiệp Khắc đã bị chiếm đóng.<ref name="Global"/>
 
Cả [[România]] và [[Albania]] đều không tham gia vào cuộc tấn công, Albania rút khỏi Khối hiệp ước Warszawa năm 1962.<ref name="Warsaw">{{chúChú thích web
| lasthọ = Curtis
| firsttên = Glenn E.
| titletiêu đề = The Warsaw Pact
| url = http://www.shsu.edu/~his_ncp/WarPact.html
| publishernhà xuất bản = Federal Research Division of the Library of Congress
| accessdatengày truy cập = ngày 19 tháng 2 năm 2008}}</ref> Trong cuộc tấn công của quân đội Khối Warszawa, 72 [[người Séc]] và [[người Slovak]] đã bị giết hại (19 trong số đó tại Slovakia), 266 người bị thương nặng và 436 người khác bị thương nhẹ.<ref name="Praguelife">{{chúChú thích web
| titletiêu đề = Springtime for Prague
| work = Prague Life
| publishernhà xuất bản = Lifeboat Limited
| url = http://www.prague-life.com/prague/prague-spring
| accessdatengày truy cập = ngày 30 tháng 4 năm 2006}}</ref><ref name="Williams158">Williams (1997), p 158</ref> Alexander Dubček kêu gọi người dân không kháng cự.<ref name="Williams158">Williams (1997), p 158</ref> Tuy nhiên, có sự kháng cự lẻ tẻ trên các đường phố. Các biển hiệu tại các thị trấn có mũi tên chỉ hướng đến Moscow bị phá huỷ hay bị sơn đè lên.<ref>See Paul Chan, "Fearless Symmetry" ''Artforum International'' vol. 45, March 2007.</ref> Nhiều làng mạc đổi tên thành "Dubcek" hay "Svoboda"; không có các thiết bị dẫn đường, Quân đội Khối Hiệp ước thường bị lạc.<ref name="CivilianResistance">{{chúChú thích web
| titletiêu đề = Civilan Resistance in Czechoslovakia
| url = http://www.fragmentsweb.org/TXT2/czechotx.html
| publishernhà xuất bản = Fragments
| accessdatengày truy cập = ngày 5 tháng 1 năm 2009}}</ref>
 
Dù trong đêm diễn ra cuộc tấn công, Đoàn chủ tịch Tiệp Khắc tuyên bố rằng quân đội Khối Warszawa đã vượt biên giới mà không thông báo cho chính phủ Tiệp Khắc, [[Những tờ báo Trung ương Liên Xô|báo chí Liên Xô]] đã in một yêu cầu không có chữ ký, được cho là của đảng cộng sản Tiệp Khắc và các lãnh đạo nhà nước, về sự "hỗ trợ ngay lập tức, gồm hỗ trợ quân sự".<ref name="skilling">Skilling (1976)</ref> Tại [[Đại hội đảng]] lần thứ 14 của Đảng Cộng sản Tiệp Khắc (được tổ chức bí mật, ngay sau sự can thiệp), có sự nhấn mạnh rằng không thành viên nào của ban lãnh đạo yêu cầu sự can thiệp.<ref>Navrátil (2006), p xviii</ref> Những bằng chứng gần đây hơn cho thấy một số thành viên thân Liên Xô bên trong Đảng Cộng sản Tiệp Khắc (gồm Biľak, Švestka, Kolder, Indra, và Kapek) quả thực có gửi một yêu cầu can thiệp tới chính phủ Liên Xô.<ref>Fowkes (2000), pp 64–85</ref> Sau cuộc xâm lược là một làn sóng di cư, lớn chưa từng có, và cũng chấm dứt ngay sau đó. Ước tính 70,000 người đã bỏ đi ngay lập tức, và con số tổng cộng lên tới 300,000 người.<ref>{{chúChú thích web
| lasthọ = Čulík
| firsttên = Jan
| titletiêu đề = Den, kdy tanky zlikvidovaly české sny Pražského jara
| url = http://www.britskelisty.cz/9808/19980821h.html
| publishernhà xuất bản = Britské Listy
| accessdatengày truy cập = ngày 23 tháng 1 năm 2008}}</ref>
 
Người Liên Xô gắn cuộc tấn công với "Chủ nghĩa Brezhnev" cho rằng Liên bang Xô viết có quyền can thiệp bất cứ khi nào một quốc gia thuộc Khối Đông Âu có vẻ đang có hành động hướng tới [[chủ nghĩa tư bản.]]<ref>Grenville (2005), p 780</ref> Tuy nhiên, vẫn có một số điều chưa chắc chắn, về việc điều kiện nào, nếu có, đã xảy ra để khiến quân đội Khối Warszawa can thiệp. Những ngày dẫn tới cuộc tấn công thực sự là một giai đoạn yên tĩnh không có bất kỳ một sự kiện lớn nào diễn ra ở Tiệp Khắc.<ref name="Williams 1997, p 156"/>
Dòng 135:
{{seealso|Các cuộc phản kháng năm 1968}}
[[Tập tin:Adunare Piaţa Palatului August 1968.jpg|nhỏ|200px|Chủ tịch Romania [[Nicolae Ceauşescu]] có một bài diễn văn chỉ trích cuộc xâm lược trước một đám đông tại Bucharest, ngày 21 tháng 8 năm 1968]]
Tại Tiệp Khắc, sự phản đối của dân chúng với cuộc xâm lược được thể hiện bằng nhiều hành động phản kháng đồng thời và phi bạo lực. Ngày 19 tháng 1 năm 1969, sinh viên [[Jan Palach]] [[tự thiêu]] tại [[Quảng trường Wenceslas]] ở Praha để phản đối sự trấn áp quyền tự do ngôn luận mới được tái lập.<ref>{{chúChú thích web
| titletiêu đề = Jan Palach
| url = http://archiv.radio.cz/palach99/eng/aktual3.html
| publishernhà xuất bản = Radio Prague
| accessdatengày truy cập = ngày 19 tháng 2 năm 2008}}</ref> Sự phản đối của dân chúng khiến Liên bang Xô viết phải từ bỏ kế hoạch ban đầu loại bỏ vị Bí thư thứ nhất. Dubček, đã bị bắt giữ vào đêm ngày 20 tháng 8, bị đưa về Moscow cho các cuộc đàm phán. Tại đó, ông và nhiều nhà lãnh đạo khác đã ký, nhưng dưới áp lực tâm lý lớn từ các chính trị gia Liên xô, [[Nghị định thư Moscow]] và hai bên đồng ý rằng Dubček sẽ tiếp tục tại vị và một chương trình cải cách ôn hoà sẽ tiếp tục.
 
[[Tập tin:Za vashu i nashu svobodu.jpg|200px|nhỏ|trái|Băng rôn phản đối bằng tiếng Nga viết "Vì tự do của các bạn và của chúng tôi"]]
Vào ngày [[25 tháng 8]] năm 1968, các công dân Liên Xô không ủng hộ cuộc tiến công [[Biểu tình trên Quảng trường Đỏ năm 1968|biểu tình trên Quảng trường Đỏ]]; tám người biểu tình có mang theo các băng rôn với các khẩu hiệu chống lại cuộc tấn công của Khối Hiệp ước. Những người biểu tình đã bị bắt giữ và sau này bị trừng phạt; cuộc biểu tình bị chụp mũ là "phản Cách mạng".<ref>Gorbanevskaya (1972)</ref>
 
Một hiệu ứng được phát biểu nhiều hơn diễn ra tại nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Romania, nơi lãnh đạo nước này [[Nicolae Ceauşescu]], đã là một người đối lập mạnh với các ảnh hưởng từ Liên xô và tự tuyên bố mình là một người ủng hộ Dubček, có một bài phát biểu công khai tại [[Bucharest]] trong ngày diễn ra cuộc xâm lược, lên án các chính sách của Liên xô với những lời lẽ mạnh mẽ.<ref name="Warsaw"/> Tại [[Phần Lan]], một quốc gia nằm dưới một số ảnh hưởng chính trị của Liên xô, vụ xâm lược đã gây ra một scandal lớn.<ref name="FINB">Jutikkala, Pirinen (2001)</ref> Như [[Đảng Cộng sản Italia|Italia]] và [[Đảng Cộng sản Pháp|Pháp]]<ref name="OSA">{{chúChú thích web
| lasthọ = Devlin
| firsttên = Kevin
| publishernhà xuất bản = Open Society Archives
| titletiêu đề = Western CPs Condemn Invasion, Hail Prague Spring
| url = http://files.osa.ceu.hu/holdings/300/8/3/text/135-2-510.shtml
| accessdatengày truy cập = ngày 20 tháng 2 năm 2008}}</ref> Các Đảng Cộng sản, [[Đảng Cộng sản Phần Lan]] bác bỏ sự chiếm đóng. Tuy vậy, [[Tổng thống Phần Lan]] [[Urho Kekkonen]] là chính trị gia phương Tây đầu tiên chính thức tới thăm Tiệp Khắc sau tháng 8 năm 1968; ông nhận được sự đón tiếp ở mức vinh dự cao nhất từ chủ tịch [[Ludvík Svoboda]], ngày 4 tháng 10 năm 1969.<ref name="FINB"/> Tổng bí thư [[Đảng Cộng sản Bồ Đào Nha]] [[Álvaro Cunhal]] là một trong số ít lãnh đạo chính trị từ Tây Âu đã ủng hộ cuộc xâm lược là [[phản cách mạng]].<ref>Andrew, Mitrokhin (2005), p 444</ref> cùng với [[Đảng Cộng sản Luxembourg]]<ref name="OSA"/> và các nhóm bảo thủ trong [[Đảng Cộng sản Hy Lạp]].<ref name="OSA"/>
 
[[Tập tin:Helsinki demonstration against the invasion of Czechoslovakia in 1968.jpg|nhỏ|phải|200px|Cuộc tuần hành tại Helsinki phản đối xâm lược Tiệp Khắc]]
 
Các quốc gia phương Tây chỉ đưa ra những lời chỉ trích sau cuộc xâm lược. Đêm diễn ra cuộc xâm lược Canada, [[Đan Mạch]], Pháp, [[Paraguay]], Anh Quốc và Hoa Kỳ yêu cầu một cuộc họp của [[Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc|Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc]].<ref name = "franck">Franck (1985)</ref> Tại cuộc họp, đại sứ Tiệp Khắc [[Jan Muzik]] bác bỏ cuộc xâm lược. Đại sứ Liên xô [[Jacob Alexandrovich Malik|Jacob Malik]] nhấn mạnh rằng những hành động của Khối hiệp ước Warszawa là "sự giúp đỡ anh em" chống lại "các lực lượng chống xã hội".<ref name = "franck">Franck (1985)</ref> Ngày hôm sau, nhiều quốc gia đề nghị một nghị quyết lên án sự can thiệp và kêu gọi rút quân ngay lập tức. Cuối cùng, một cuộc bỏ phiếu diễn ra. Mười thành viên ủng hộ đề nghị; [[Algérie]], Ấn Độ và [[Pakistan]] bỏ phiếu trắng; [[Liên Xô|Liên xô]] (với quyền phủ quyết) và [[Hungary]] phản đối. Các đại biểu Canada ngay lập tức đưa ra một đề xuất khác đòi một đại diện Liên hiệp quốc tới Praha và làm việc theo hướng đòi thả các lãnh đạo Tiệp Khắc đang bị giam giữ.<ref name = "franck">Franck (1985)</ref> Tới ngày 26 tháng 8 một cuộc bỏ phiếu khác diễn ra, nhưng một đại diện Tiệp Khắc mới yêu cầu toàn bộ vấn đề bị loại ra khỏi chương trình nghị sự của Hội đồng Bảo an. Chính phủ Hoa Kỳ đã gửi [[Shirley Temple Black]] tới Praha trong tháng 8 năm 1968 chuẩn bị trở thành đại sứ Hoa Kỳ đầu tiên ở Tiệp Khắc tự do. Hai thập kỷ sau, khi Tiệp Khắc đã độc lập, Black là đại sứ Hoa Kỳ đầu tiên tại nước này.<ref>{{chúChú thích web
| lasthọ = Joseph
| firsttên = Lawrence E
| titletiêu đề = International; Prague's Spring Into Capitalism
| url = http://query.nytimes.com/gst/fullpage.html?res=9C0CEEDF1338F931A35751C1A966958260&sec=&spon=&pagewanted=1
| work = The New York Times
| datengày tháng = ngày 2 tháng 12 năm 1990 | accessdatengày truy cập = ngày 20 tháng 2 năm 2008}}</ref>
 
== Hậu quả ==
Dòng 167:
[[Tập tin:Radnice Liberec pamatnik 1968.jpg|nhỏ|upright|phải|Đài tưởng niệm những nạn nhân của cuộc xâm lược, tại [[Liberec]]]]
 
Tháng 4 năm 1969, Dubček bị thay thế khỏi chức vụ Bí thư thứ nhất bởi [[Gustáv Husák]], và một giai đoạn "[[Bình thường hóa (Tiệp Khắc)|bình thường hóa]]" bắt đầu.<ref name = "Williams">Williams (1997), p xi</ref> Dubček bị trục xuất khỏi Đảng Cộng sản Tiệp Khắc và được trao cho một công việc tại sở kiểm lâm.<ref name="Auto"/><ref name="Schoolnet">{{chúChú thích web
|titletiêu đề = Alexander Dubcek
|url = http://www.spartacus.schoolnet.co.uk/COLDdubcek.htm
|publishernhà xuất bản = Spartacus Educational | accessdatengày truy cập = ngày 25 tháng 1 năm 2008}}</ref>
 
Husák đã đảo ngược các biện pháp cải cách của Dubček, thanh trừng các thành viên [[Chủ nghĩa tự do|tự do]] trong đảng, và loại bỏ khỏi các văn phòng nhà nước các cá nhân chuyên môn và trí thức đã công khai thể hiện sự bất bình với sự chuyển tiếp chính trị.<ref name=Interpolitics>Goertz (1995), pp 154–157</ref> Husák tái lập quyền lực của cảnh sát và tăng cường quan hệ với các quốc gia xã hội chủ nghĩa khác. Ông cũng tìm cách tái [[Kinh tế kế hoạch hoá|tập trung hoá]] nền kinh tế, bởi một số lượng lớn các quyền tự do đã được trao cho các ngành công nghiệp trong thời kỳ diễn ra phong trào Mùa xuân Praha.<ref name="Interpolitics"/> Việc bình luận về chính trị một lần nữa bị ngăn cấm trên truyền thông chính thức và những lời tuyên bố chính trị của bất kỳ ai không được coi là "tin tưởng hoàn toàn về chính trị" đều bị ngăn cấm.<ref name="KieranPress"/> Sự thay đổi lớn duy nhất còn tồn tại là việc [[liên bang hoá]] đất nước, tạo ra [[Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Séc]] và [[Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Slovak]] năm 1969.
Dòng 188:
Một thập kỷ sau, một giai đoạn tự do hóa chính trị của Trung Quốc được gọi là [[Mùa xuân Bắc Kinh]]. Nó cũng một phần gây ảnh hưởng tới phong trào [[Mùa xuân Croatia]] tại Nam Tư.<ref>Despalatović (2000), pp 91–92</ref> Trong một cuộc nghiên cứu năm 1993 tại Séc, 60% người tham gia có một ký ức cá nhân liên quan tới Mùa xuân Praha trong khi 30% người khác quen thuộc với các sự kiện ở một số hình thức khác.<ref>Williams (1997), p 29</ref>
 
Sự kiện này đã được đề cập trong âm nhạc đại chúng, gồm bài hát của [[Karel Kryl]], [[Luboš Fišer]] ''Requiem'',<ref>{{chúChú thích web
| titletiêu đề = Luboš Fišer
| url = http://www.musica.cz/fiser/
| datengày tháng = ngày 5 tháng 2 năm 2005 | publishernhà xuất bản = CZMIC
| accessdatengày truy cập = ngày 23 tháng 1 năm 2008}}</ref> và ''[[Music for Prague 1968]]'' của [[Karel Husa]].<ref>{{chúChú thích web
| lasthọ = Duffie
| firsttên = Bruce
| datengày tháng = ngày 1 tháng 12 năm 2001 | titletiêu đề = Karel Husa, The Composer in Conversation with Bruce Duffie
| url = http://www.bruceduffie.com/husa.html
| publishernhà xuất bản = ''New Music Connoisseur Magazine''
| accessdatengày truy cập = ngày 23 tháng 1 năm 2008}}</ref> "[[They Can't Stop The Spring]]", một bài hát của nhà báo và nghệ sĩ sáng tác người Ireland [[John Waters (nhà báo)|John Waters]], đã đại diện cho Ireland tại [[Eurovision Song Contest]] năm 2007. Waters đã miêu tả nó là "một kiểu chào mừng của người Celtic với các cuộc cách mạng Đông Âu và những kết quả của nó", trích dẫn câu nói được cho là của Dubček: "Họ có thể dẫm đạp hoa, nhưng họ không thể ngăn cản mùa xuân."<ref>{{chúChú thích web
| titletiêu đề = John Waters, The Events That Transpired it
| url = http://www.unison.ie/irish_independent/stories.php3?ca=9&si=1774358&issue_id=15243
| work = Spring: The Events that Transpired it
| datengày tháng = ngày 11 tháng 2 năm 2007 | accessdatengày truy cập = ngày 21 tháng 1 năm 2008}}</ref>
 
Mùa xuân Praha cũng xuất hiện trong văn học. [[Milan Kundera]] đã nghiền ngẫm tác phẩm ''[[The Unbearable Lightness of Being]]'' của mình trong thời gian diễn ra phong trào Mùa xuân Praha. Nó đi theo những tác động của sự hiện diện ngày càng tăng của Liên xô và sự kiểm soát cảnh sát độc tài với dân chúng.<ref>Kundera (1999), p 1</ref> Một bộ phim chuyển thể vào năm 1988.<ref>{{chúChú thích web
| titletiêu đề = The Unbearable Lightness of Being
| url = http://www.imdb.com/title/tt0096332/
| publishernhà xuất bản = IMDb.com
| accessdatengày truy cập = ngày 29 tháng 3 năm 2008}}</ref> ''[[Những người giải phóng (Suvorov)|Những người giải phóng]]'', của [[Viktor Suvorov]], là một miêu tả của một chứng nhân về cuộc xâm lược Tiệp Khắc năm 1968, từ quan điểm của một sĩ quan xe tăng Liên xô.<ref>Suvorov (1983), p 1</ref> ''[[Rock 'n' Roll (play)|Rock 'n' Roll]]'', một vở kịch của nhà soạn kịch [[Tom Stoppard]], có đề cập đến Mùa xuân Praha, cũng như cuộc [[Cách mạng Nhung]] năm 1989.<ref>{{chúChú thích web
| lasthọ = Mastalir
| firsttên = Linda
| datengày tháng = ngày 28 tháng 6 năm 2006 | titletiêu đề = Tom Stoppard's "Rock 'n' Roll"
| url = http://www.radio.cz/en/article/80581
| publishernhà xuất bản = Radio Prague
| accessdatengày truy cập = ngày 23 tháng 1 năm 2008}}</ref>
[[Heda Margolius Kovály]] cũng chấm dứt cuốn hồi ký của mình ''Under a Cruel Star'' với một lời đề cập tới Mùa xuân Praha và cuộc xâm lược sau đó, và những cảm nhận của bà về các sự kiện đó.<ref>Margolius-Kovály (1986), pp 178–192</ref>
 
Ngoài chuyển thể kịch bản phim của tác phẩm ''The Unbearable Lightness of Being'', cũng có một bộ phim ''[[Pelíšky]]'' của đạo diễn [[Jan Hřebejk]] và tác giả kịch bản [[Petr Jarchovský]], thể hiện các sự kiện của Mùa xuân Praha, dù nó nói nhiều hơn về giai đoạn bình thường hoá.<ref name="phim"/> Bộ phim âm nhạc Séc, ''[[Những kẻ nổi loạn]]'' của [[Filip Renč]], cũng thể hiện các sự kiện và cuộc xâm lược sau đó cũng như làn sóng di cư.<ref name="phim">{{chúChú thích web
| lasthọ = Čulík
| firsttên = Jan
| titletiêu đề = The Prague Spring as reflected in Czech postcommunist cinema
| url = http://www.blisty.cz/2008/4/11/art40074.html
| publishernhà xuất bản = Britské Listy
| datengày tháng = ngày 11 tháng 4 năm 2008 | accessdatengày truy cập = ngày 16 tháng 4 năm 2008}}</ref>
 
Số ''68'' đã trở thành biểu tượng tại [[Tiệp Khắc]] cũ. Vận động viên [[Khúc côn cầu trên băng|Hockey]] [[Jaromír Jágr]] mặc số này bởi tầm quan trọng của nó trong lịch sử Tiệp Khắc.<ref>Morrison (2006), pp 158–159</ref><ref>{{chúChú thích web
| titletiêu đề = Legends of Hockey, [[Jaromír Jágr]]
| url = http://www.legendsofhockey.net:8080/LegendsOfHockey/jsp/SearchPlayer.jsp?player=10703
| publishernhà xuất bản = Hockey Hall of Fame and Museum
| accessdatengày truy cập = ngày 23 tháng 1 năm 2008}}</ref> Một nhà xuất bản cũ có trụ sở tại [[Toronto]], [[68 Publishers]], xuất bản những cuốn sách của các tác gia người Séc và Slovak đang sống lưu vong, lấy tên theo sự kiện đó.
 
== Tham khảo ==