Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chiến tranh Yom Kippur”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Uoat365 (thảo luận | đóng góp)
Không có tóm lược sửa đổi
Uoat365 (thảo luận | đóng góp)
Dòng 264:
== Ảnh hưởng lâu dài của cuộc chiến ==
[[File:UN Checkpoint - Flickr - The Central Intelligence Agency.jpg|nhỏ|phải|256px|Tháng 11-1973, lực lượng giữ gìn hòa bình Liên Hợp Quóc tiến vào khu vực phân giới, cách ly quân đội Israel và quân đội Ai Cập tại khu vực 101 km phía Đông kênh đào Suez]]
Phía Israel có 2.656 quân nhân thiệt mạng, 772 trong số đó là tại mặt trận Syria. Còn khoảng từ 300 đến 500 quân nhân bị bắt làm tù binh nhưng sau chiến tranh tất cả đã được trao trả. Phía Ai Cập tổn thất khoảng 5.000 quân nhân thiệt mạng, phía Syria là khoảng 2.800 người.
 
Mặc dù hứng chịu tổn thất ít hơn đối phương, song các cuộc tấn công của quân Ả Rập đã giáng một đòn mạnh vào Israel. Với quy mô dân số ít và nền kinh tế nhỏ, Israel khó có thể chịu đắpđựng được mức tổn thất phải gánh chịu nếu chiến tranh tiếp tục kéo dài thêm mấy tuần. Nếu không có khoản viện trợ khẩn cấp trị giá 2,2 tỷ USD (thời giá năm 1973) của Mỹ thì chưa chắc quân đội Israel còn đủ lực lượng để tổ chức phản công trong giai đoạn sau của cuộc chiến.
 
Theo một ước tính, cuộc chiến đã khiến Israel thiệt hại tài chính tương đương với tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của nước này trong một năm. Chỉ tính riêng ở mặt trận Sinai, khoảng 1/4 lực lượng không quân của Israel đã bị bắn hạ. Khoảng 1 nửa lực lượng thiết giáp, 40-60% lực lượng không quân của Israel đã bị tiêu diệt trong cuộc chiến. Israel đã trụ vững nhưng với một cái giá quá đắt. Những tác động của cuộc chiến đã góp phần khiến Thủ tướng Meir mất chức vào năm 1974 cùng với Bộ trưởng Quốc phòng Dayan.
 
Về phía người Ả Rập, những thắng lợi lớn trong giai đoạn đầu cuộc chiến khiến người dân các nước này rất phấn chấn. Binh sỹ Ả Rập cũng thể hiện sự tiến bộ rõ rệt so với [[chiến tranh Sáu ngày]] năm 1967. Với dân số ít ỏi của mình, kể cả khi tổn thất về người của Israel chỉ bằng 1/3 đối phương, thì họ cũng sẽ là bên kiệt sức trước. Người Israel lo ngại nếu một cuộc chiến nữa nổ ra và quân đội Ả Rập tiếp tục tiến bộ hơn nữa, thì liệu họ có thể chống đỡ được hay không. Israel phải tính đến chuyện từ bỏ các lãnh thổ đã chiếm của Ai Cập để đổi lấy hòa bình.
 
Cuộc đàm phán hòa bình khi chiến tranh kết thúc đánh dấu lần đầu tiên các quan chức Ả Rập và Israeli họp mặt trực tiếp đàm phán, kể từ sau [[Chiến tranh Ả Rập-Israel 1948|cuộc chiến năm 1948]]. Trong cuộc chiến tranh này, Tổng thống Ai cập đã đạt được mục tiêu đề ra – đàm phán hòa bình trên thế mạnh với Israel và Mỹ (tháng 9/1978, Ai cập và Israel ký thỏa thuận hòa bình – Ai Cập công nhận Israel và Israel rút quân ra khỏi bán đảo Sinai), lấy lại được phần lãnh thổ bị chiếm đóng. Nhưng cũng vì việc công nhận Nhà nước Israel mà ông đã bị các quân nhân Ai Cập ám sát trong lễ duyệt binh 6/10/1981 (kỷ niệm 8 năm ngày bắt đầu cuộc chiến tranh).