Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Trận Đát La Tư”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Dòng 22:
Thất bại đến từ sự đào ngũ của quân đánh thuê Karluk và sự rút lui của những đồng minh Ferghana, những người ban đầu ủng hộ Trung Quốc. Người Karluk, chiếm hai phần ba lực lượng nhà Đường, đã đào ngũ khỏi liên minh Trung Quốc và đổi sang phía Hồi giáo khi trận chiến đang diễn ra. Với việc bị quân Karluk tấn công từ phía sau và quân Ả Rập tấn công từ phía trước, các binh sĩ nhà Đường đã không thể chống đỡ được. Chỉ huy quân Đường, [[Cao Tiên Chi|Cao Xianzhi,]] nhận ra rằng thất bại là không thể tránh khỏi và đã đem quân rút chạy với sự giúp đỡ của [[Li Siye]]. Mặc dù thua trận, Li đã gây tổn thất nặng nề về quân đội Ả Rập truy đuổi. Sau trận đánh, Cao Tiên Chi đã chuẩn bị một chiến dịch khác chống lại chống lại người Ả Rập, trước khi [[loạn An Sử]] nổ ra năm 755. Khi kinh đô nhà Đường bị quân nổi loạn chiếm giữ, tất cả quân đội Trung Quốc đóng ở Trung Á được lệnh trở lại Trung Nguyên để dập tắt nổi loạn.
 
== Bối cảnh ==
Vào cuối những năm 740, quân đội Trung Hoa làm chủ Kabul và những tỉnh Kashmir của ấn Độ. Nhưng những chiến dịch chiến thắng đã không thể kéo dài thêm nữa khi họ tiến đến khu vực sông Talas vào 751.
Các cuộc xâm lược của Đạo hồi xuyên qua Ba Tư và Trung Á cùng với sự mở rộng về hướng tây của triều Đường dẫn tới chạm trán giữa những kẻ xâm lược, kết cục của nó là trận chiến sông Talas. Trận đánh duy nhất giữa đế quốc Ả Rập Hồi giáo và đế quốc Trung Hoa.
 
Vào cuối những năm 740, Trung Hoa mở rộng ảnh hưởng đến Kabul và vùng Kashmir của Ấn Độ. Các cuộc xâm lược của Đạo hồi xuyên qua Ba Tư và Trung Á cùng với sự mở rộng về hướng tây của triều Đường dẫn tới chạmtranh tránchấp giữa nhữnghai kẻ xâm lượcbên, kết cục của nó là trận chiến tại sông Talas. Trận đánh duy nhất giữa đế quốc Ả Rập Hồi giáo và đế quốc Trung Hoa.
Chỉ huy quân Đường là Kao Hsien-chih, người đã thành công trong các trận chiến tại khu vực Gilgit và Ferghana. Các tín đồ Đạo Hồi được dẫn dắt bởi Ziyad ibn Salih, người đại biểu cho Abu Hồi giáo (những người Ba Tư chuyển sang Đạo hồi), với 40, 000 Ghazis (những quân nhân bị mê hoặc bởi lời hứa của Đạo hồi về sự giàu có, phụ nữ hay tử vì đạo). Họ đến Trung Quốc để tiến hành một cuộc chiến chống lại người Trung Hoa. Khi quân đội Ả Rập tiến từ phía nam về phía sông Talas, Tổng quan Kao Trung Hoa đã quyết định tiến về phía Aulie- Ata trên sông Talas với mười vạn quân gồm kỵ binh và bộ binh.
 
Chỉ huy quân Đường là KaoCao Hsien-chihTiên Chi, người đã thành công trong các trận chiến tại khu vực Gilgit và Ferghana. CácQuân tínHồi đồ Đạo Hồigiáo được dẫn dắt bởi Ziyad ibn Salih, một người đại biểu cho Abu Hồi giáo (những người Ba Tư chuyển sang Đạo hồi), với khoảng 40, 000 Ghazis (những quân nhân bị mê hoặc bởi lời hứa của Đạo hồi về sự giàu có, phụ nữ hay tử vì đạo). Họ đến Trung Quốc để tiến hành một cuộc chiến chống lại người Trungbinh Hoaghazi. Khi quân đội Ả Rập tiến từ phía nam về phía sông Talas, Tổng quan KaoCao TrungTiên HoaChi đã quyết định tiến về phía Aulie- Ata trên sông Talas với mười vạn quân gồm kỵ binh và bộ binh.
Ngày 10 tháng 7 năm 751,hai quân đội gặp nhau tại Aulie-Ata (on the backs of the Talas river). Kỵ binh Trung Hoa thoạt tiên có vẻ chiếm ưu thế trước kỵ binh Ả Rập, nhưng người Ả Rập lại có được thoả thuận với một số đội quân Thổ trong hàng ngũ quân đội Trung Hoa: Qarluqs người Thổ Nhĩ Kỳ, bằng việc hứa cho họ sự giàu có và tự do để đổi lấy việc theo Đạo hồi và phản bội những người chủ Trung Hoa của họ.
 
== Diễn biến ==
Qarluqs có sẵn ý muốn chống lại người Trung hoa để thoát khỏi lệ thuộc, nhìn điều này như một cơ hội. Qarlugs sau đó giữ vai trò chính trong việc thuyết phục những bộ lạc Thổ Nhĩ Kỳ Seljuks theo Đạo Hồi.
Trong lúc trận đánh đang diễn ra, Qarluqs đã mở một cửa mở trong phòng tuyến của mình và cho phép người Ả Rập lội qua chỗ cạn, giúp họ bao vây và tiêu diệt một phần quân đội Trung Hoa.
 
Ngày 10 tháng 7 năm 751, hai quân độibên gặp nhau tại Aulie-Ata (ontrên thebờ backs of thesông Talas river). Kỵ binh Trung Hoa thoạt tiên có vẻ chiếm ưu thế trước kỵ binh Ả Rập, nhưng người Ả Rập lại có đượcđã thoả thuận trước với mộtlính sốđánh độithuê quânngười ThổTurk trong hàng ngũ quân đội Trung Hoa:. QarluqsBộ ngườitộc ThổKarluk Nhĩ Kỳ, bằng việcđược hứa chohẹn họbằng sựvật giàu cóchất và tự do để đổi lấy việc theocải sang Đạo hồi và phản bội những người chủ Trung Hoa của họ. Người Karluk, nuôi sẵn ý định thoát khỏi lệ thuộc vào Trung Hoa, chớp lấy cơ hội này.
Các xạ thủ bắn cung của Qarluqs đã bao vây đoàn hậu quân, quân lương Trung Hoa cùng tổng quan quân đội Kao Trung Hoa và bắn hạ ông ta. Sau đó người Ả Rập bắt đầu tàn sát, chặt đầu kẻ thù và đem diễu hành trước quân địch.
Người Trung Hoa không được chuẩn bị để đối đầu với chiến thuật chiến tranh rùng rợn như vậy, rơi vào sự hỗn loạn, không biết rằng đã bị phản bội. Họ đã chia nhau bỏ chạy khiến trung tâm thế trận rung chuyển, nhanh chóng bị các đợt tấn công của kỵ binh nặng Ả Rập phá vỡ. Như vậy nhờ mưu kế và tính tàn bạo kết hợp trong cuộc tấn công của người Ả Rập và kẻ phản bội Qarluqs, người Trung Hoa đã gặp một thất bại nặng nề. Từ mặt sau, Qarluqs cướp bóc tất cả những gì có thể và lui lại vào trong thảo nguyên.
 
Trong lúc trận đánh đang diễn ra, Qarluqsngười Karluk đã mở một cửakhoảng mởtrống trong phònghàng tuyếnngũ của mình và cho phép người Ả Rập lộixâm quanhập chỗ cạnvào, giúp họ bao vây và tiêu diệt một phần quân độiĐườnb. Các xạ thủ bắn cung Karluk đã bao vây đoàn hậu quân chở quân lương Trung Hoa.
Người Ả Rập bắt được khoảng mười ngàn tù binh Trung Hoa cùng Đồng minh, đưa họ về Samarqand và xa hơn nữa. Họ cũng khai thác các phát minh của Trung Hoa trong vây hãm thành trì, máy bắn đá,... những công cụ đã tỏ ra rất hữu ích khi họ tấn công các thành phố của người Byzantine sau này.
Quân Đường bắt đầu bỏ chạy khiến trung quân tan rã, nhanh chóng bị các đợt tấn công của kỵ binh nặng Ả Rập phá vỡ. Ở phia sau, quân Karluk cướp bóc tất cả những gì có thể và rút về thảo nguyên.
 
Người Ả Rập bắt được khoảng mười ngàn tù binh Trung Hoa cùng đồng minh, đưa họ về Samarqand.
 
== Chú thích ==