Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Vương Kiệt (nhà Thanh)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 5:
 
==Sự nghiệp==
Năm [[Càn Long]] thứ 26 (1761), Kiệt đỗ tiến sĩ; tham gia kỳ điện thí, bài của ông được giám khảo xếp thứ 3 khi dâng lên hoàngHoàng đế. Càn Long đếĐế phát hiện nét chữ của Kiệt rất quen thuộc; thì ra năm xưa ông từng viết thay tấu sớ cho Doãn Kế Thiện, được Hoàng đế khen ngợi. Sau khi dò hỏi về nhân phẩm của Kiệt, Càn Long đếĐế lập tức cất nhắc ông lên đỗ đầu. Vào lúc được triệu kiến, Kiệt tỏ ra ổn trọng, đoan trang, khiến đế càng thêm hài lòng. Bấy giờ nhà Thanh đã chiếm được Trung Nguyên hơn trăm năm, mà vẫn chưa có trạng nguyên người Thiểm Tây, vì vậy Càn Long đếĐế làm ngự chế thi để kỷ niệm sự kiện này. Ít lâu sau Kiệt được làm Trực Nam thư phong, thường coi việc xét duyệt văn chương; trải qua 5 lần thăng chức, làm đến Nội các học sĩ.<ref name="A" />
 
Năm thứ 39 (1774), Kiệt được thụ chức Hình bộ thị lang, rồi được điều sang bộ Lại, tiếp đó được cất nhắc làm Tả đô ngự sử. Năm thứ 48 (1783), Kiệt xin nghỉ vì tang mẹ, lập tức được cất nhắc gia hàm Binh bộ thượng thư. Xa giá nam tuần, Kiệt đến hành tại tạ ơn, Càn Long đếĐế nói: “ Ngươi đến rất hay. Vua tôi ly biệt đã lâu, nên biết trẫm rất nhớ ngươi. Nhưng ngươi là nhà Nho, trẫm không muốn cưỡng ép ngươi, cứ trọn tang rồi quay lại cũng được.” Mãn tang, Kiệt được về triều. Năm thứ 51 (1786), Kiệt nhận mệnh làm Quân cơ đại thần, Thượng thư phòng Tổng sư phó. Năm sau (1787), Kiệt được bái làm Đông các đại học sĩ, quản lý bộ Lễ. Sau khi lần lượt bình định Đài Loan, Khuếch Nhĩ Khách, Càn Long đếĐế đều vẽ tranh đại thần để treo ở gác Tử Quang, Kiệt được góp mặt cả hai lần, còn được gia hàm Thái tử thái bảo.<ref name="A" />
 
Kiệt ở Quân cơ xứ hơn 10 năm, làm việc có được mất, nhưng chưa từng nói trái lòng mình. Bấy giờ thế lực của [[Hòa Thân]] đang thịnh, công việc phần nhiều do ông ta quyết định, đồng liêu nín nhịn không nói, nhưng Kiệt cho rằng không thể như vậy, ra sức tranh cãi. Càn Long đếĐế biết rất rõ tình trạng của hai người, nên Hòa Thân căm ghét Kiệt, nhưng không dám tìm cớ đuổi ông đi. Mỗi khi bàn bạc triều chánh xong, Kiệt ngồi im lặng một mình, ngày kia Hòa Thân cầm tay ông mà đùa rằng: “Sao mà mềm mại vậy?” Kiệt nghiêm sắc mặt, đáp rằng: “Tay Vương Kiệt tuy đẹp, nhưng không cần tiền đâu!” khiến Hòa Thân đỏ mặt.<ref name="A" />
 
Năm [[Gia Khánh]] đầu tiên (1796), Kiệt lấy cớ đau chân, xin miễn nhiệm ở Quân cơ xứ, thư phòng, kể cả việc quản lý bộ; được chấp thuận. Triều đình có việc lớn, hoàngHoàng đế ắt hỏi han Kiệt, mà ông cũng được tùy thời vào gặp. Bấy giờ [[khởi nghĩa Bạch Liên giáo]] đang hừng hực, Kiệt dâng sớ, chủ trương thi hành chánh sách mềm mỏng, ưu đãi nghĩa quân về hàng, đồng thời nhận định lưu dân khởi nghĩa là do quan lại địa phương tàn bạo, bức hiếp dân lành gây ra; ngoài ra ông còn đề nghị tổ chức hương dũng và tập hợp lưu dân để biên chế thành quân đội chính quy. Sớ dâng lên, được Càn Long đếThái Thượng hoàng chấp nhận.<ref name="A" />
 
Năm thứ 2 (1797), Kiệt lại được triệu vào Quân cơ xứ, theo xa giá đi Nhiệt Hà. Ít lâu sau, Kiệt lại bị đau chân, được nhận chiếu không cần ở lại Quân cơ xứ, có thể quay về kinh thành trước Thái thượngThượng hoàng. Mùa thu năm thứ 3 (1798), quan quân bắt được thủ lãnh Bạch Liên giáo là Vương Tam Hòe, triều đình phong thưởng đại thần của Quân cơ xứ, Càn Long đếThái Thượng hoàng cho rằng Kiệt không còn ở Quân cơ xứ, nhưng trước đó có công bày mưu đặt kế.<ref name="A" />
 
==Trí sĩ==
Đến khi Gia Khánh đếĐế nắm quyền chánh, Kiệt được xem là thủ phụ, hễ gặp việc cần giữ gìn đại cục, thì ông đứng ra can ngăn, nên được đế tôn trọng. Năm thứ 5 (1800), Kiệt lấy cớ bệnh yếu xin hưu, có chiếu vỗ về giữ lại, cho phép ông được chống gậy vào chầu. Năm thứ 7 (1802), Kiệt có xin trí sĩ, được tấn hàm Thái tử thái phó, ở nhà mà vẫn được nhận bổng lộc. Mùa xuân năm thứ 8 (1803), Kiệt sắp sửa về quê, dâng sớ trình bày những tệ nạn chánh trị đương thời, được Gia Khánh đếĐế khen ngợi và tiếp nhận. Ngày từ biệt, Kiệt được ban gậy chim cưu ngọc ngự dụng của Càn Long đếĐế, 2 chương Ngự chế thi, để chuyến trở về của ông thật vẻ vang. Ở quê nhà, Kiệt hằng năm được ban thưởng không dứt; mỗi khi ông trần tấu, đều được Gia Khánh đếĐế đích thân viết thư trả lời, chuyện trò thân mật như người nhà.<ref name="A" />
 
Năm thứ 9 (1804), Kiệt và vợ là Trình thị đều được 80 tuổi, triều đình mệnh cho Tuần phủ Phương Duy Điện đem Ngự chế thi, ngạch (tức hoành phi), trân vật (thức ăn ngon),... đến nhà ông mừng sanh nhật. Kiệt vào cung tạ ơn; tháng giêng ÂL năm sau, ông mất ở kinh thành. Gia Khánh đếĐế thương tiếc, ban vàng để lo việc tang, tặng hàm Thái tử thái sư, thờ cúng ở Hiền Lương từ, đặt thụy là Văn Đoan.<ref name="A" />
 
==Đánh giá==
Kiệt có hình thể trung bình, tính cách hòa ái thân thiện, nhưng giữ vững cương chánh; ông phục vụ 2 đời hoàng đế, nhờ trung trực mà được tin cậy. Vào lúc Kiệt mới trí sĩ, còn chưa về quê, thì gặp sự kiện Trần Đức tấn công ngự giá trong Tử Cấm thành; ông vội vàng vào gặp Gia Khánh đếĐế, nói rằng: “Đức là tên đầu bếp hèn kém, sao dám nuôi chí mưu nghịch? Đây hẳn là có kẻ sai khiến hắn bắt chước Trương Sai đời Minh {{efn|Năm 1615, kẻ tiều phu là Trương Sai (张差) xông vào Tử Cấm thành, ý đồ tấn công thái tử Chu Thường Lạc (về sau là Minh Quang Tông), đây là [[Án đĩnh kích]] cuối đời Minh}}, hòng thanh trừ nỗi lo về những kẻ chống đối.” Đến năm thứ 18 (1813), khởi nghĩa Thiên Lý giáo của bọn Lâm Thanh nổ ra, Gia Khánh đếĐế nhớ lời Kiệt, riêng ban lễ vật để cúng tế ông.<ref name="A" />
 
Vào lúc đưa tiễn Kiệt, Gia Khánh đếĐế ban 2 chương Ngự chế thi, có câu: 直道一身立廊庙, 清风两袖返韩城 (Hán Việt: trực đạo nhất thân lập lang miếu, thanh phong lưỡng tụ phản Hàn Thành). Sử cũ cho biết người đương thời bàn rằng: như thế là đủ nói lên trọn vẹn cuộc đời của Kiệt.<ref name="A" />
 
==Hậu nhân==