Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Hệ miễn dịch”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi |
|||
Dòng 5:
'''Hệ miễn dịch''' là một hệ thống bảo vệ vật chủ gồm nhiều cấu trúc và [[quá trình sinh học]] của [[Sinh vật|cơ thể]] nhằm bảo vệ chống lại [[bệnh|bệnh tật]]. Để hoạt động bình thường, hệ thống miễn dịch phải phát hiện được rất nhiều yếu tố, gọi là [[mầm bệnh]], có thể là từ [[virus]] đến [[ký sinh trùng]], và phải phân biệt chúng với những [[mô]] khỏe mạnh của [[Cơ thể sống|cơ thể]]. Ở nhiều loài, hệ thống miễn dịch có thể được phân thành các hệ thống nhỏ hơn, chẳng hạn như [[hệ thống miễn dịch bẩm sinh]] với [[hệ thống miễn dịch thu được]], hoặc [[miễn dịch thể dịch]] và [[miễn dịch qua trung gian tế bào]]. Ở người, [[Hàng rào máu não|hàng rào máu–não]], [[hàng rào máu–dịch não]] và các hàng rào chất lỏng–não tương tự tách biệt hệ thống miễn dịch bình thường với [[hệ thống miễn dịch não]], vốn chuyên bảo vệ [[não]].
Các [[mầm bệnh]] có thể nhanh chóng [[tiến hóa]] và thích nghi, và do đó có thể tránh bị phát hiện và không bị vô hiệu hoá bởi hệ thống miễn dịch; tuy nhiên, nhiều cơ chế phòng thủ cũng đã tiến hóa để nhận diện và trung hòa mầm bệnh. Ngay cả các [[sinh vật đơn bào]] đơn giản như [[vi khuẩn]] cũng có hệ thống miễn dịch thô sơ dưới dạng các [[enzym]] bảo vệ (ở đây là [[enzym giới hạn]]) để chống lại các bệnh do [[thể thực khuẩn]]. Một số cơ chế miễn dịch cơ bản khác đã phát triển trong các loài [[Sinh vật nhân thực|sinh vật nhân chuẩn]] cổ đại và vẫn còn trong hậu duệ hiện đại của chúng, như ở [[thực vật]] và [[động vật không xương sống]]. Các cơ chế này bao gồm [[thực bào]], các [[peptide]] kháng khuẩn được gọi là [[defensin]], và hệ thống [[bổ thể]]. Các [[động vật có quai hàm]], bao gồm cả [[Người|con người]], còn có cơ chế phòng vệ tinh vi hơn,<ref name=":7">Beck G, Habitat GS (tháng 11 năm 1996). [http://people.scs.carleton.ca/~soma/biosec/readings/sharkimmu-sciam-Nov1996.pdf "Immunity and the Invertebrates"] (Miễn dịch và ĐV không xương sống) (PDF). ''Scientific American''. 275 (5): 60–66. {{
Rối loạn hệ thống miễn dịch có thể dẫn đến [[bệnh tự miễn]], [[Viêm|bệnh viêm]] và [[ung thư]].<ref>O'Byrne KJ, Dalgleish AG (Aug 2001). [https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC2364095 "Chronic immune activation and inflammation as the cause of malignancy"].("Kích thích hệ miễn dịch và viêm liên tục là nguyên nhân gây nên ác tính") ''British Journal of Cancer''. 85 (4): 473–83. doi:[https://doi.org/10.1054%2Fbjoc.2001.1943 10.1054/bjoc.2001.1943]. PMC [https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC2364095 2364095] . PMID [https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/11506482 11506482].</ref> [[Suy giảm miễn dịch]] là khi hệ miễn dịch ít hoạt động hơn bình thường, dẫn đến các bệnh nhiễm trùng tái phát và đe dọa đến mạng sống. Ở người, [[suy giảm miễn dịch]] có thể là kết quả của một căn bệnh di truyền như suy giảm miễn dịch kết hợp cấp, các bệnh liên quan đến [[HIV/AIDS]], hoặc sử dụng thuốc ức chế miễn dịch. Ngược lại, [[bệnh tự miễn]] là kết quả khi hệ thống miễn dịch hoạt động quá mức nên tấn công chính các [[mô]] bình thường như thể là sinh vật ngoại lai. Các bệnh tự miễn thường gặp bao gồm [[viêm tuyến giáp Hashimoto]], [[viêm khớp dạng thấp]], [[Bệnh tiểu đường|bệnh đái tháo đường type 1,]] và [[lupus ban đỏ hệ thống]]. [[Miễn dịch học]] là môn học nghiên cứu của tất cả các khía cạnh của hệ thống miễn dịch.
== Lịch sử miễn dịch học ==
[[Miễn dịch học]] là một ngành khoa học tìm hiểu thành phần và chức năng của hệ miễn dịch. Nó xuất phát từ nghiên cứu y dược và các nghiên cứu ban đầu về các nguyên nhân gây miễn nhiễm đối với bệnh tật. Miễn dịch được đề cập đến sớm nhất là trong trận [[đại dịch]] ở [[Athens]] năm 430 TCN. [[Thucydides]] đã để ý rằng những người đã hồi phục từ một đợt bệnh trước đó có thể giám sát người đang bệnh mà không bị bệnh lại lần thứ hai.<ref>Retief FP, Cilliers L (tháng 1 năm 1998). "The epidemic of Athens, 430-426 BC" (Đại dịch ở Athens, 430-426 trước CN). South African Medical Journal = Suid-Afrikaanse Tydskrif Vir Geneeskunde. 88 (1): 50–3. PMID [https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/9539938 9539938]</ref> Vào thế kỷ 18, [[Pierre-Louis Moreau de Maupertuis]] thực hiện thí nghiệm với nọc độc bọ cạp và quan sát thấy rằng một số con chó và chuột đã được miễn nhiễm với nọc độc này.<ref>Ostoya P (1954) . [http://www.persee.fr/doc/rhs_0048-7996_1954_num_7_1_3379 "Maupertuis et la biologie"]. "Maupertuis và Sinh học" ''Revue d'histoire des sciences et de leurs applications''. 7 (1): 60–78. {{
Miễn dịch học đã có một bước tiến lớn vào cuối thế kỷ 19, do sự phát triển nhanh chóng trong nghiên cứu về [[miễn dịch thể dịch]] và [[miễn dịch tế bào]].<ref>Metchnikoff, Elie; Dịch bởi F.G. Binnie. (1905). [https://books.google.com/?id=ywKp9YhK5t0C&printsec=titlepage&vq=Ehrlich&dq=history+of+humoral+immunity ''Immunity in Infective Diseases''] (Miễn dịch bệnh truyền nhiễm) (Full Text Version: Google Books). Cambridge University Press. LCCN [https://catalog.loc.gov/vwebv/search?searchCode=LCCN&searchArg=68025143&searchType=1&permalink=y 68025143]</ref> Đặc biệt quan trọng là công trình của [[Paul Ehrlich]], người đã đề xuất [[lý thuyết chuỗi phụ phân tử]] (side-chain) để giải thích tính đặc hiệu của phản ứng kháng nguyên-kháng thể; những đóng góp của ông cho sự hiểu biết về miễn dịch thể dịch đã được ghi nhận bởi [[Giải Nobel|giải thưởng Nobel]] năm 1908, cùng với người đề xuất [[miễn dịch qua trung gian tế bào]], [[Ilya Ilyich Mechnikov|Elie Metchnikoff]].<ref>[http://nobelprize.org/nobel_prizes/medicine/laureates/1908/ The Nobel Prize in Physiology or Medicine 1908] (Giải Nobel cho Sinh lý học và dược học năm 1908) Nobelprize.org Truy cập 8 tháng 1 năm 2007</ref>
Dòng 249:
{{Các hệ cơ quan người}}
{{Siêu họ thụ thể kháng thể trong đáp ứng miễn dịch}}
{{Các nhóm thuốc chính}}
{{Kiểm soát tính nhất quán}}
{{Thanh chủ đề|Sinh học|Y học|Sinh học phân tử|Sinh học tế bào|Virus}}
|