Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Girls' Generation”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Dòng 1:
{{Infobox musical artist
| Name = '''Girls' Generation (SNSD) <br> 소녀시대'''
| image = Girls' Generation at DMC Festival 2015 MBC Radio DJ Concert 02.jpg
| Img = https://www.google.com.vn/url?sa=i&source=images&cd=&ved=2ahUKEwjMss-X6encAhVCWX0KHQBDAiIQjRx6BAgBEAU&url=http%3A%2F%2Fas03622.pixnet.net%2Fblog%2Fpost%2F365277713-140502-%25E5%25B0%2591%25E5%25A5%25B3%25E6%2599%2582%25E4%25BB%25A3%25E6%25A8%2582%25E5%25A4%25A9%25E7%2599%25BE%25E8%25B2%25A8-%25E5%25AE%25A3%25E5%2582%25B3%25E5%259C%2596&psig=AOvVaw3UJldO1NYPXPt9FIzJta8d&ust=1534242591609603
| Img_capt = Girls' Generation làmbiểu gươngdiễn mặttại đại2015 diệnDMC cho LotteFestival vào tháng 9 năm 20142015.<br>(Từ trên xuống dưới, từ trái sang phải: [[Sunny (ca sĩ)|Sunny]], [[Kwon Yuri|Yuri]], [[Yoona]], [[Seohyun]], [[Kim Tae-yeon|Taeyeon]], [[YoonaSooyoung]], [[Tiffany (ca sĩ Hàn Quốc)|Tiffany]] và [[Kim Hyo-yeon|Hyoyeon]])
| Landscape =
| Img_size = 300px
Dòng 26:
|hanja=少女時代}}
 
'''Girls' Generation''' ({{ko-hhrm|소녀시대||So Nyeo Shi Dae}}, [[Tiếng Nhật]]: {{lang|ja|{{ruby|少女時代|しょうじょじだい}}}}; [[Rōmaji]]: Shōjo Jidai) là một [[nhóm nhạc nữ]] tiêu biểu nổi tiếng của Hàn Quốc được [[S.M. Entertainment]] thành lập và quản lý. Ban đầu đội hình có 9 thành viên, do sự ra đi của [[Jessica Jung|Jessica]] vào 2014 và [[Tiffany (ca sĩ Hàn Quốc)|Tiffany]], [[Choi Soo-young|SooYoungSooyoung]], [[Seohyun|SeoHyunSeohyun]] vào 2017 nên đội hình hiện tại của nhóm bao gồm 5 thành viên [[Kim Tae-yeon|Taeyeon]], [[Sunny (ca sĩ)|Sunny]], [[Kim Hyo-yeon|Hyoyeon]], [[Kwon Yuri|Yuri]] và [[Im Yoona|Yoona]]. SNSD được mệnh danh là "Nhóm nhạc quốc dân" vì những đóng góp mà các thành viên nói riêng và cả nhóm nói chung đạt được. Nhóm ra mắt công chúng vào năm 2007 với album phòng thu đầu tay ''[[Girls' Generation (album 2007)|Girls' Generation]]''. Mặc dù album này đã đạt được những thành công nhất định, ''Girls' Generation'' mới thực sự trở nên nổi tiếng vào năm 2009 với đĩa đơn "[[Gee (bài hát của Girls' Generation)|Gee]]". Bài hát đã giành chiến thắng trên chương trình âm nhạc ''[[Music Bank (chương trình truyền hình)|Music Bank]]'' trong 9 tuần liên tiếp, đồng thời được [[Melon (dịch vụ âm nhạc trực tuyến)|Melon]] lựa chọn là bài hát phổ biến nhất tại Hàn Quốc trong thập niên 2000. Ngay sau đó, ''Girls' Generation'' tiếp tục xây dựng tên tuổi của mình với các đĩa đơn "[[Tell Me Your Wish (Genie) (bài hát)|Tell Me Your Wish (Genie)]]", "[[Oh! (bài hát của Girls' Generation)|Oh!]]" và "[[Run Devil Run (bài hát của Girls' Generation)|Run Devil Run]]", được phát hành từ giữa năm 2009 đến đầu năm 2010.
 
Giữa năm 2010, ''Girls' Generation'' ký hợp đồng với Nayutawave Records (nay là [[EMI Records Japan]]) nhằm tiếp cận thị trường âm nhạc Nhật Bản. [[Girls' Generation (album 2011)|Album phòng thu tiếng Nhật đầu tay]] của nhóm đạt vị trí cao nhất trên bảng xếp hạng album của [[Oricon]] và đã trở thành album của một nhóm nhạc nữ Hàn Quốc đầu tiên được [[Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Nhật Bản]] chứng nhận là đã bán được 1 triệu bản. Album phòng thu tiếng Hàn thứ ba của nhóm, ''[[The Boys (album của Girls' Generation)|The Boys]]'', được phát hành vào tháng 10 năm 2011 và đã trở thành album bán chạy nhất năm 2011 tại Hàn Quốc với doanh số hơn 380.000 bản. Phiên bản tiếng Anh của bài hát chủ đề "[[The Boys (bài hát của Girls' Generation)|The Boys]]" đã được [[Interscope Records]] phát hành tại Mỹ. Album phòng thu tiếng Hàn thứ tư của nhóm, ''[[I Got a Boy]]'', và [[I Got a Boy (bài hát)|đĩa đơn cùng tên]] đã nhận được sự chú ý từ truyền thông phương Tây sau khi bài hát giành chiến thắng ở hạng mục Video âm nhạc của năm tại lễ trao giải ''YouTube Music Awards'' năm 2013. Album phòng thu tiếng Hàn thứ năm của nhóm, ''[[Lion Heart (album)|Lion Heart]]'', được phát hành vào năm 2015.