Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Mẫn Huệ Cung Hoà nguyên phi”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n Đã lùi lại sửa đổi của 116.110.247.189 (Thảo luận) quay về phiên bản cuối của Dang Thien2009
Thẻ: Lùi tất cả
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 16:
}}
 
'''Mẫn Huệ Cung Hoà Nguyên phi''' ([[chữ Hán]]: 敏惠恭和元妃; [[1609]] – [[8 tháng 10]], năm [[1641]]), được biết đến với tên gọi '''Hải Lan Châu''' ([[chữ Hán]]: 海兰珠), [[phiTiếng Mãn|tiếng Mãn tầnChâu]]: rất''Hairanju'') được sủng áiphi của [[Thanh Thái Tông]] Hoàng Thái Cực. Tình yêu sâu đậm của Hoàng Thái Cực dành cho bà được vang truyền rộng rãi khắp [[lịch sử]] [[Nhất Hạnh|nhà Thanh]].
 
là cháu gái của [[Hiếu Đoan Văn hoàng hậu]], chánhchính thấtthê của Hoàng Thái Cực, và là chị gái của [[Hiếu Trang Văn Hoàng Hậu]], mẹsinh đẻmẫu của [[Thanh Thế Tổ]] Thuận Trị Đế.
 
==Thân thế==
Nguyên phi sinh ngày [[11 tháng 11]], năm Vạn Lịch thứ 37 ([[1609]]), thuộc dòng tộc [[Bột Nhi Chỉ Cân|Bát Nhĩ Tế Cát Đặc thị]], bộ tộc [[Khoa Nhĩ Thấm]] [[Mông Cổ]]. Sử sách conkhông gáighi của Trungtên, thânnhưng vươngtheo [[Trạinhiều Tang]] (寨桑)thuyết, một [[Bối lặcHán]] của bộ tộc và là hậu duệ đời thứ 18 của [[Cáp Tát NhĩTên|danh]] (哈撒尔),được embiết traiđến [[Thànhnhiều Cát Tư Hãn]]. Tênnhất của bà có nhiều thuyết, nổi nhất là '''Hải Lan Châu''' (海兰珠)<ref>Mãn văn ''Hairanju'', nghĩa là ''trân ái chi nữ, luyến tiếc nữ hài''</ref>, sau đó là '''Ô Vưu Đại''' (烏尤黛)<ref>Mông văn là ''Oyoodai'', Ô Vưu Đại ở Mông ngữ ý tứ là ''mỹ ngọc, bích ngọc''</ref>., Têntiếng gọiMông '''CápCổ Nhậtnghĩa Châu Hạp''"bích ngọc"''. (哈日珠拉) xuất xứ từ bộTrong [[tiểu thuyết]] [[Độc bộ thiên hạ]], khôngthì thấytên lịch sử ghi'''Cáp lạiNhật liênChâu hệ đóLạp''' là tên của Nguyên phi(哈日珠拉).
 
Dòng dõi của bà chính là hậu duệ trực hệ của [[Chuyết Xích Hợp Tác Nhi]] [[Cáp Tát Nhĩ]] (拙赤合撒儿哈撒尔), em trai cùng mẹ của [[Thành Cát Tư Hãn]]. Cao tổ phụ là [[Bát Địa Đạt Lãi]] (博地达赉), [[Bối lặc]] lâu đời của [[Khoa Nhĩ Thấm]] tộc và là hậu duệ đời thứ 16 của Chuyết Xích Hợp Tác Nhi. Tằng tổ phụ [[Nạp Mục Tắc]] (纳穆塞), kế vị Bối lặc, sinh ra [[Mãng Cổ Tư]] (莽古斯), được nhà Thanh truy phong ''Hòa Thạc Phúc Thân vương'' (和硕福亲王). Mãng Cổ Tư có một người con trai là Trung Thân vương [[Trại Tang]] (寨桑), sau kế vị trở thành [[Bối lặc]]; và một người con gái là [[Hiếu Đoan Văn Hoàng hậu|Bát Nhĩ Tề Cát Đặc Triết Triết]] (博爾濟吉特哲哲).
Bà là cháu gái gọi [[Hiếu Đoan Văn Hoàng hậu]] Triết Triết bằng cô, và là chị gái của [[Hiếu Trang Văn hoàng hậu]] Bố Mộc Bố Thái, nổi tiếng với Hán danh Đại Ngọc Nhi. Nhiều thuyết cho rằng, tuy là con gái Bối lặc nhưng Hải Lan Châu không được xem là [[Cách cách]] giống như Đại Ngọc Nhi vì mẹ của Đại Ngọc Nhi là Đại phúc tấn của bộ tộc, còn mẹ của Hải Lan Châu chỉ là tì thiếp.
 
Trại Tang có hai con trai là Trác Lễ Khác Đồ Thân vương [[Ngô Khắc Thiện]] (吴克善) và Đạt Nhĩ Hán Ba Đồ Lỗ Thân vương [[Mãn Châu Tập Lễ]] (滿珠習禮); 2 con gái là Hải Lan Châu và [[Hiếu Trang Hoàng Thái hậu|Bố Mộc Bố Thái]] (大玉儿布), [[Hán]] [[Tên|danh]] ''Đại Ngọc Nhi'' (木布泰). Xét vai vế, Hải Lan Châu là cháu gọi Triết Triết bằng cô và là tỷ tỷ ruột của Đại Ngọc Nhi; ngoài ra gọi [[Hoàng Thái Cực]] vừa bằng dượng vừa bằng em rể, vì cả cô và em gái bà đều được gả Hoàng Thái Cực.
Cô của bà Triết Triết kết hôn với người kế vị của [[Hậu Kim]] là [[Hoàng Thái Cực]] và được phong làm Đại Phúc tấn. Tuy nhiên trong nhiều năm, Đại phúc tấn Triết Triết lần lượt sinh 3 người con gái, không sinh được con trai nối dõi có dòng máu [[Ái Tân Giác La]] và [[Bác Nhĩ Tề Cát Đặc]]. Sau đó, Bối lặc Trại Tang, anh trai của Triết Triết đề cử Hoàng Thái Cực phong con gái Bố Mộc Bố Thái làm Trắc Phúc tấn nhưng sau nhiều năm Bố Mộc Bố Thái cũng không sinh con trai cho Hoàng Thái Cực.
 
==Đại Thanh Thần phi==
Năm Vạn Lịch thứ 42 ([[1614]]), [[Hiếu Đoan Văn Hoàng hậu|Triết Triết]] kết hôn với người kế thừa [[Hậu Kim]] là [[Hoàng Thái Cực]], được phong [[Phúc tấn|Đại Phúc tấn]]. Dưới thời [[Hậu Kim]], các [[Khả hãn|Đại Hãn]] Ái Tân Giác La thị rất xem trọng liên hôn với Mông Cổ, do đó hoàng tử sinh bởi ác Phúc tấn người Mông Cổ sẽ được ưu ái. Vậy mà trong nhiều năm, Đại Phúc tấn sinh 3 hoàng nữ mà không sinh đoàng tử nối dõi có dòng máu [[Ái Tân Giác La]] và [[Bác Nhĩ Tề Cát Đặc]]. Năm Thiên Mệnh thứ 10 ([[1625]]), Trại Tang tiến cử Đại Ngọc Nhi làm [[Phúc tấn|Trắc Phúc tấn]] cho Hoàng Thái Cực. Nhưng suốt 9 năm Đại Ngọc Nhi cũng chỉ sinh 3 công chúa mà chưa sinh được con trai.
Năm Thiên Thông thứ 8 ([[1634]]), Đài cát của Khoa Nhĩ Thấm bộ là [[Ô Khắc Thiện]] đưa em gái đến, Hãn cùng các Phúc tấn bày yến nghênh tiếp, nạp làm Trắc Phúc tấn<ref>《清入关前内国史院满文档案》记载:“天聪八年(1634年)十月十六日。科尔沁部乌克善洪台吉率诸臣送妹至。汗偕诸福晋迎至,设大宴纳之为福晋。”</ref>.
 
Năm Thiên Thông thứ 8 ([[1634]]), Thân vương [[Ngô Khắc Thiện]], lúc đó là Đài cát của Khoa Nhĩ Thấm, bộmang theo [[Ôem Khắcgái Thiện]]Hải đưaLan emChâu gáinhập đến,cung. Đại Hãn Hoàng Thái Cực cùng các Phúc tấn bày yến nghênh tiếp, nạpphong bà làm Trắc Phúc tấn<ref>《清入关前内国史院满文档案》记载:“天聪八年(1634年)十月十六日。科尔沁部乌克善洪台吉率诸臣送妹至。汗偕诸福晋迎至,设大宴纳之为福晋。”</ref>. Nhiều thuyết khác nhau lý giải việc bà được gả cho Hoàng Thái Cực trễ hơn người em gái Đại Ngọc Nhi nhiều năm, tuy nhiên sử sách không chứng minh bất kỳ ghi chép nào là đúng:
Hải Lan Châu nhập cung và trở thành [[Trắc Phúc tấn]], khi năm 26 tuổi, rất được Hoàng Thái Cực sủng ái hơn cả. Có thuyết kể rằng, bà nhập cung để thăm em gái Bố Mộc Bố Thái thì được Hoàng Thái Cực để mắt và ân hạnh. Với Hải Lan Châu, Hoàng Thái Cực có thể nói là rêu rao chỉ sợ thiên hạ không biết mình yêu bà nhiều đến thế nào.
 
* Có thuyết tương truyền Hải Lan Châu và Đại Ngọc Nhi là chị em cùng cha khác mẹ. Mẹ Ngô Khắc Thiện và Đại Ngọc Nhi là vợ cả của Trại Tang, [[Phúc tấn|Đại phi]] của Khoa Nhĩ Thấm tộc; còn mẹ Mãn Châu Tập Lễ và Hải Lan Châu chỉ là [[Thiếp|Tiểu phi]]. Khác với Đại Ngọc Nhi, bà không được xem là [[Cách cách]] (格格) và bị mẹ của Đại Ngọc Nhi ngược đãi từ bé. Bà phải làm việc như [[Nô lệ|nô tì]], mãi không xuất giá. Về sau, trong cung có lời đồn nữ nhi thuộc Khoa Nhĩ Thấm tộc không có phúc sinh con trai kế thừa [[Hậu Kim]]. Tình thế bất lợi, Trại Tang tiếp tục tiến cử con thứ Hải Lan Châu cho Đại Hãn.
Năm Sùng Đức nguyên niên ([[1636]]), Hoàng Thái Cực xưng [[Hoàng đế]], thành lập [[nhà Thanh]].
* Có thuyết lại kể rằng Hải Lan Châu đã từng gả cho Trác Lâm (桌林), một tướng sĩ của Khoa Nhĩ Thấm tộc. Trong một lần ra chiến trường, Trác Lâm tử trận, Hải Lan Châu trở thành góa phụ. Sau đó, bà vào cung thăm Đại Ngọc Nhi, được Hoàng Thái Cực để mắt và ân hạnh, nạp làm Trắc thất. Năm đó Hải Lan Châu 26 tuổi, trễ hơn nhiều so với lứa tuổi xuất giá lúc bấy giờ (khoảng từ 13 đến 18), vì vậy rất có khả năng bà từng kết hôn trước đó.
 
Hải Lan Châu nhập cung và trở thành [[Trắc Phúc tấn]], khiđược nămsủng 26ái tuổi,nhất rất đượccủa Hoàng Thái Cực. sủngBất áiluận hơnxuất cả.thân thấp thuyết kể rằngkém, Hoàng nhậpThái cungCực đểvẫn thăm emcùng gáiân Bốái Mộc Bốhơn Tháihẳn thìĐại đượcPhúc Hoàngtấn TháiTriết CựcTriết để mắtĐại Ngọc ân hạnhNhi. VớiĐối Hảivới Lan Châu, Hoàng Thái Cực có thể nói là rêu rao chỉ sợ thiên hạ không biết mìnhtình yêu của mình nhiều đến thế nào.
Hoàng Thái Cực phong Đại phúc tấn Triết Triết làm [[Hoàng hậu]], cư ở [[Thanh Ninh cung]] và lập ra '''Tứ phi''' (四妃), gồm có: ''Thần phi'' (宸妃), ''Quý phi'' (貴妃), ''Thục phi'' (淑妃) và ''Trang phi'' (莊妃). Trắc phúc tấn Bố Mộc Bố Thái, em gái của bà, được Hoàng Thái Cực nạp vào trước cả Hải Lan Châu nhưng chỉ được phong Trang phi, vị trí thấp nhất trong Tứ phi. Còn Hải Lan Châu đến sau 9 năm lại được phong vị trí cao nhất là '''Quan Thư cung Thần phi''' (关雎宫宸妃). Hoàng Thái Cực đặt tên cho cung điện này dựa theo bài ''Quan Thư'' trong [[Kinh Thi]]: ''"Quan quan thư cưu, tại hà chi châu. Yểu điệu thục nữ, quân tử hảo cầu."''<ref>Nguyên văn: 關關雎鳩,在河之洲. 窈窕淑女,君子好逑</ref>. Câu thơ này từ xưa đến nay đều chỉ đến tình cảm thâm tình của nam nhân đối với vợ của mình, cho thấy thâm ý vinh sủng đặc biệt của Hoàng Thái Cực dành cho Hải Lan Châu như thế nào. Địa vị trong Ngũ cung của Hải Lan Châu cũng rất cao, chỉ dưới Thanh Ninh cung Hoàng hậu mà thôi.
 
Năm Sùng Đức nguyên niên ([[1636]]), Đại Hãn Hoàng Thái Cực xưng [[Hoàng đế]], thành lập [[nhà Thanh]]. Ông phong Đại phúc tấn Triết Triết làm [[Hoàng hậu]], cư ở [[Thanh Ninh cung]] và lập ra '''Tứ phi''' (四妃), gồm có: ''Thần phi'' (宸妃), ''Quý phi'' (貴妃), ''Thục phi'' (淑妃) và ''Trang phi'' (莊妃). TrắcĐại phúcNgọc tấn Bố Mộc Bố Thái, em gái của bà,Nhi được Hoàng Thái Cực nạp vào trước cả Hải Lan Châu 9 năm nhưng chỉ được phong ''Trang phi,'' ban [[Vĩnh Phúc cung]], vị trí thấp nhất trong Tứ phi. Còn Hải Lan Châu đếnđược sauphong 9địa nămvị lạicao nhất chúng phi là '''Thần phi''', chỉ dưới Thanh Ninh cung Hoàng hậu. Bà được phongban vị[[Quan tríThư caocung]] nhấtnên gọi'''Quan Thư cung Thần phi'' (关雎宸妃宸妃). Hoàng Thái Cực đặt tên cho cung điện này dựa theo bài ''Quan Thư'' trong [[Kinh Thi]]: ''"Quan quan thư cưu, tại hà chi châu. Yểu điệu thục nữ, quân tử hảo cầu."''<ref>Nguyên văn: 關關雎鳩,在河之洲. 窈窕淑女,君子好逑</ref>. Câu thơ này từ xưa đếnthể nay đều chỉ đếnhiện tình cảm thâm tìnhý trọng của nam nhân đối với vợ của mình, cho thấy thâm ý vinh sủng đặccao biệttựa trời của Hoàng Thái Cực dành cho HảiThần Lan Châu như thế nàophi. Địa vị trong Ngũ cung của Hải Lan Châu cũng rất cao, chỉ dưới Thanh Ninh cung Hoàng hậu mà thôi.
Năm Sùng Đức thứ 2 ([[1637]]), ngày [[8 tháng 7]] (tức ngày [[27 tháng 8]] dương lịch), Thần phi sinh hạ Hoàng bát tử. Thanh Thái Tông rất mực yêu thương Hoàng bát tử, còn vì ngày sinh của Hoàng tử mà ban chiếu cáo, đại xá thiên hạ, là chiếu cáo đại xá đầu tiên trong toàn bộ lịch sử nhà Thanh<ref>崇德二年,宸妃生下皇八子,皇太极欣喜若狂,很快就决定立这个婴儿为皇位继承人,大宴群臣,还颁发了大清朝第一道大赦令。大赦令中规定,除犯上、焚毁宗庙、陵寝、宫殿,叛逃杀人,毒药,巫蛊,偷盗祭天及御用器物,殴祖父母、父母,卖兄弟、妻诬告夫、内乱、纠党白昼劫人等十罪不赦外,一切监禁之人全部免罪。(此道颁发令如下记载。八天后他在盛京皇宫举行重大庆典的大政殿,为皇八子的诞生颁发了有清以来的第一道大赦令。诏令中写道:“自古以来,人君有诞子之庆,必颁诏大赦于国中,此古帝王之隆规。今蒙天眷,关雎宫宸妃诞育皇嗣,朕稽典礼,欲使遐迩内外政教所及之地,咸被恩泽……”。诏令中规定了除十恶之罪不赦外,其余等罪,“咸赦除之”。)</ref><ref>崇德二年七月十六日: ○壬午。以关雎宫宸妃、诞生皇子。集文武群臣於笃恭殿、颁诏大赦。制曰:自古以来、人君有诞子之庆、必颁大赦于国中。此古帝王之隆规。今蒙天眷。关雎宫宸妃、诞育皇嗣。朕稽典礼。欲使遐尔内外政教所及之地、咸被恩泽。除犯上、焚毁宗庙陵寝宫殿、叛逃、杀人、毒药巫蛊、盗祭天及御用器物、敺祖父母父母、兄卖弟、妻诬告夫、内乱、纠党白昼劫人财物、此十罪俱不赦外。其余逃亡、遗失物件、被人认出者、令还原主。免其罪。互相借货者、照旧偿还。见在羁禁之人、及一切诖误小过,窃_盗隐匿等罪、咸赦除之。有以赦前事告者、毋听仍以所告之罪罪之。已结案定罪、赎锾未完者、照常追取。虽经议罪、而未定案者、赦免。赦后有犯者、依律治罪。</ref>, việc dùng đạo chỉ đại xá mừng ngày sinh của Hoàng bát tử, chỉ có lệ dành cho [[Trữ quân]] mà thôi, đây có thể thấy rõ sự sủng ái của Hoàng Thái Cực đối với mẹ con Hải Lan Châu. Không chỉ có Hoàng Thái Cực ban chiếu đại xá, các Ngoai6 phiên vương công Mông Cổ, cũng lấy việc Hoàng bát tử hạ sinh mà dâng biểu thượng chúc mừng<ref>崇德二年八月初五日: ○庚子。外藩蒙古诸贝勒、以诞生皇子。上表称贺。上御崇政殿。巴林部落阿玉石、卫寨桑、毛祁他特、扎鲁特部落内齐、喇巴泰、台吉塞冷、戴青达尔汉、沙里、达尔马等、行庆贺礼。表文曰。巴林部落阿玉石等、诚惶诚恐跪奏。恭遇宽温仁圣皇帝。诞生皇子臣等闻之喜不自胜。谨赍庆贺礼物进献。次阿坝垓部落台吉塞尔扎尔得尔格尔乌朱穆秦部落台吉宜思哈布等行礼。表文曰。阿霸垓部落台吉塞尔扎尔等。诚惶诚恐跪奏宽温仁圣皇帝。恩德溥及外藩。臣等顶戴洪慈。不胜喜悦谨具礼物进献。次土默特部落俄木布楚虎尔行礼。</ref><ref>崇德二年八月十一日: ○丙午。崇德二年八月十一日。是日、科尔沁国土谢图亲王巴达礼、固伦额驸班第、扎萨克图郡王布塔齐等。以关雎宫宸妃、诞生皇子。遣官进献貂裘、牛、马、貂皮等物。</ref><ref>崇德二年八月十八日: ○癸丑。是日、上率和硕亲王、多罗郡王、多罗贝勒、固山贝子、于辰刻。出怀远门、至演武场较射。上御黄幄。适外藩蒙古四子部落达尔汉卓礼克图俄木布、巴林部落满珠习礼等、关雎宫宸妃、诞生皇子。遣使进献驮马上表庆贺。上命树的。与马哈撒嘛谛塞臣汗、及谢图汗下诸臣较射。选善射者、每旗各十人。分左右翼。令之角胜。负者罚牛羊。和硕亲王、多罗郡王、多罗贝勒、固山贝子等。亲率较射。右翼诸王贝勒贝子等、射中独多。得牛二、羊二十。又令左右各出力士。令之角觝。右翼诸王贝勒贝子等负。还所得左翼牛一。羊二。於是令左翼和硕睿亲王多尔衮、和硕豫亲王多铎、多罗贝勒豪格、多罗饶余贝勒阿巴泰等射。负者俱立、宴右翼诸王贝勒之射胜者。宴毕。并命外藩朝贡贝勒及诸臣、依次列坐。设宴宴之。申刻。上还宫。酌纳达尔汉卓礼克图俄木布、满珠习礼等。所献驮马。科尔沁国土谢图亲王巴达礼、札萨克图郡王布塔齐、彩缎、布疋等物。时上命两翼较射。岳托奏曰。臣不能执弓。上曰。尔徐引射之。尔不射、恐他翼诸王贝勒贝子等不从。谕之者三。岳托始起射。及引弓、堕地五次。岳托遂以所执弓、向诸蒙古掷之。於是诸王、贝勒、贝子、固山额真、议政大臣、刑部承政、会审。以岳托素志骄傲。妄自尊大。今败露于众人之前。如此罪恶。难以姑容。应论死。奏闻。上不听。又议幽禁别室。籍没家产。上仍不听。又议夺所属人员。罚银五千两。解兵部任。削贝勒爵。上命免夺所属人员。解兵部任。降贝勒为贝子。罚银五千两。暂令不得出门。</ref><ref>崇德三年正月初一日: ○其上皇太子笺文曰。朝鲜国王臣李倧、恭逄崇德三年正月初一日元旦节。谨奉笺称贺者。臣倧诚懽诚忭稽首顿首上言。伏以三微启序。回协气於紫宫。二极承乾。譪祥云於青殿。鸿庥川至。燕贺雷腾。恭惟皇太子殿下。德量渊冲。英姿玉裕。夙播仁闻。允孚远近之望。密赞神功。方开亨泰之运。兹当端月之会。益增前星之辉。伏念臣叨续先基。实荷皇眷。蹄涔迹滞。纵阻呼嵩之班。鹤禁心悬。敢愆事大之礼。臣无任激切屏营之至。谨奉笺称贺。献皇太子礼品数目如下:细白娟十五匹,白□□十匹。皂青葛布十匹和,黄色花席十张,花席十张,清花方序十张,各式纯花序十张,豹皮六张,白纸五百刀。</ref>
 
Năm Sùng Đức thứ 2 ([[1637]]), ngày [[8 tháng 7]] (tức ngày [[27 tháng 8]] dương lịch), Thần phi Hải Lan Châu sinh hạ Hoàng bát tử. ThanhHoàng Thái TôngCực rất mực yêu thương Hoàng bát tử, còn vìnhân ngày sinh của Hoàng tử ban chiếu cáo, đại xá thiên hạ, cũng là chiếu cáo đại xá đầu tiên trong toàn bộ lịch sử nhà Thanh<ref>崇德二年,宸妃生下皇八子,皇太极欣喜若狂,很快就决定立这个婴儿为皇位继承人,大宴群臣,还颁发了大清朝第一道大赦令。大赦令中规定,除犯上、焚毁宗庙、陵寝、宫殿,叛逃杀人,毒药,巫蛊,偷盗祭天及御用器物,殴祖父母、父母,卖兄弟、妻诬告夫、内乱、纠党白昼劫人等十罪不赦外,一切监禁之人全部免罪。(此道颁发令如下记载。八天后他在盛京皇宫举行重大庆典的大政殿,为皇八子的诞生颁发了有清以来的第一道大赦令。诏令中写道:“自古以来,人君有诞子之庆,必颁诏大赦于国中,此古帝王之隆规。今蒙天眷,关雎宫宸妃诞育皇嗣,朕稽典礼,欲使遐迩内外政教所及之地,咸被恩泽……”。诏令中规定了除十恶之罪不赦外,其余等罪,“咸赦除之”。)</ref><ref>崇德二年七月十六日: ○壬午。以关雎宫宸妃、诞生皇子。集文武群臣於笃恭殿、颁诏大赦。制曰:自古以来、人君有诞子之庆、必颁大赦于国中。此古帝王之隆规。今蒙天眷。关雎宫宸妃、诞育皇嗣。朕稽典礼。欲使遐尔内外政教所及之地、咸被恩泽。除犯上、焚毁宗庙陵寝宫殿、叛逃、杀人、毒药巫蛊、盗祭天及御用器物、敺祖父母父母、兄卖弟、妻诬告夫、内乱、纠党白昼劫人财物、此十罪俱不赦外。其余逃亡、遗失物件、被人认出者、令还原主。免其罪。互相借货者、照旧偿还。见在羁禁之人、及一切诖误小过,窃_盗隐匿等罪、咸赦除之。有以赦前事告者、毋听仍以所告之罪罪之。已结案定罪、赎锾未完者、照常追取。虽经议罪、而未定案者、赦免。赦后有犯者、依律治罪。</ref>,. việcViệc dùngban đạo chỉchiếu đại xá mừng ngàysinh sinhthần của Hoàng bát tử, chỉ có lệ dành cho [[Trữ quân]] mà thôi, đâyviệc này thể thấytỏ rõ sự sủng ái của Hoàng Thái Cực đối với 2 mẹ con HảiThần Lanphi Châuvà có thể thấy ông đã sớm có ý phong đứa con trai này làm [[Thái tử]]. Không chỉ Hoàng Thái Cực ban chiếu đại xá, các Ngoai6Ngoại phiên vương công Mông Cổ, cũng lấy việc Hoàng bát tử hạra sinhđời để dâng biểu thượng chúc mừng<ref>崇德二年八月初五日: ○庚子。外藩蒙古诸贝勒、以诞生皇子。上表称贺。上御崇政殿。巴林部落阿玉石、卫寨桑、毛祁他特、扎鲁特部落内齐、喇巴泰、台吉塞冷、戴青达尔汉、沙里、达尔马等、行庆贺礼。表文曰。巴林部落阿玉石等、诚惶诚恐跪奏。恭遇宽温仁圣皇帝。诞生皇子臣等闻之喜不自胜。谨赍庆贺礼物进献。次阿坝垓部落台吉塞尔扎尔得尔格尔乌朱穆秦部落台吉宜思哈布等行礼。表文曰。阿霸垓部落台吉塞尔扎尔等。诚惶诚恐跪奏宽温仁圣皇帝。恩德溥及外藩。臣等顶戴洪慈。不胜喜悦谨具礼物进献。次土默特部落俄木布楚虎尔行礼。</ref><ref>崇德二年八月十一日: ○丙午。崇德二年八月十一日。是日、科尔沁国土谢图亲王巴达礼、固伦额驸班第、扎萨克图郡王布塔齐等。以关雎宫宸妃、诞生皇子。遣官进献貂裘、牛、马、貂皮等物。</ref><ref>崇德二年八月十八日: ○癸丑。是日、上率和硕亲王、多罗郡王、多罗贝勒、固山贝子、于辰刻。出怀远门、至演武场较射。上御黄幄。适外藩蒙古四子部落达尔汉卓礼克图俄木布、巴林部落满珠习礼等、关雎宫宸妃、诞生皇子。遣使进献驮马上表庆贺。上命树的。与马哈撒嘛谛塞臣汗、及谢图汗下诸臣较射。选善射者、每旗各十人。分左右翼。令之角胜。负者罚牛羊。和硕亲王、多罗郡王、多罗贝勒、固山贝子等。亲率较射。右翼诸王贝勒贝子等、射中独多。得牛二、羊二十。又令左右各出力士。令之角觝。右翼诸王贝勒贝子等负。还所得左翼牛一。羊二。於是令左翼和硕睿亲王多尔衮、和硕豫亲王多铎、多罗贝勒豪格、多罗饶余贝勒阿巴泰等射。负者俱立、宴右翼诸王贝勒之射胜者。宴毕。并命外藩朝贡贝勒及诸臣、依次列坐。设宴宴之。申刻。上还宫。酌纳达尔汉卓礼克图俄木布、满珠习礼等。所献驮马。科尔沁国土谢图亲王巴达礼、札萨克图郡王布塔齐、彩缎、布疋等物。时上命两翼较射。岳托奏曰。臣不能执弓。上曰。尔徐引射之。尔不射、恐他翼诸王贝勒贝子等不从。谕之者三。岳托始起射。及引弓、堕地五次。岳托遂以所执弓、向诸蒙古掷之。於是诸王、贝勒、贝子、固山额真、议政大臣、刑部承政、会审。以岳托素志骄傲。妄自尊大。今败露于众人之前。如此罪恶。难以姑容。应论死。奏闻。上不听。又议幽禁别室。籍没家产。上仍不听。又议夺所属人员。罚银五千两。解兵部任。削贝勒爵。上命免夺所属人员。解兵部任。降贝勒为贝子。罚银五千两。暂令不得出门。</ref><ref>崇德三年正月初一日: ○其上皇太子笺文曰。朝鲜国王臣李倧、恭逄崇德三年正月初一日元旦节。谨奉笺称贺者。臣倧诚懽诚忭稽首顿首上言。伏以三微启序。回协气於紫宫。二极承乾。譪祥云於青殿。鸿庥川至。燕贺雷腾。恭惟皇太子殿下。德量渊冲。英姿玉裕。夙播仁闻。允孚远近之望。密赞神功。方开亨泰之运。兹当端月之会。益增前星之辉。伏念臣叨续先基。实荷皇眷。蹄涔迹滞。纵阻呼嵩之班。鹤禁心悬。敢愆事大之礼。臣无任激切屏营之至。谨奉笺称贺。献皇太子礼品数目如下:细白娟十五匹,白□□十匹。皂青葛布十匹和,黄色花席十张,花席十张,清花方序十张,各式纯花序十张,豹皮六张,白纸五百刀。</ref>.
Thế nhưng đến năm sau ([[1638]]), ngày [[28 tháng 1]] (âm lịch), Hoàng tử bị chết yểu, chưa kịp đặt tên. Vì lý do này, Thần phi Hải Lan Châu rất đau buồn.
 
Thế nhưng năm sau ([[1638]]), ngày [[28 tháng 1]] (âm lịch), Hoàng Tháitử Cựcbất anhạnh ủibị Thầnchết phiyểu, sauchưa đókịp nhiềuđặt nămtên. trongThần cungPhi cũng khôngcùng đau bàyxót, yếnđả kích lớn đến nỗi lâm bệnh. NgayHoàng cảThái khiCực Vĩnhan Phúcủi bà, lệnh trong cung không bày yến tiệc nhiều năm. Trang phi Đại Ngọc Nhi hạ sinh Hoàng cửu tử [[Phúc Lâm]] (tương lai [[Thanh Thế Tổ]]), hay Lân Chỉ cung Quý phi [[Na Mộc Chung]] hạ sinh Hoàng thập nhất tử [[Bát Mục Quả Nhĩ]], Hoàng Thái Cực cũng lạnh lùng, không tổ chức đại yến gì cả. Để anlàm ủiThần phi hiệuvui quảlòng, Hoàng Thái Cực phongtruy tôn mẹ của HảiTrang Lanphi Châulà [[Trung thân vương Hiền phi|Trung Thân vương Hiền phi]] (忠亲王贤妃) và phong mẹ của Thần phi là Khoa Nhĩ Thẩm Tiểu phi làm '''Hòa Thạc Hiền phi''' (和硕贤妃)<ref>崇德四年正月二十八日: ○丙戌,册封科尔沁国卓礼克图亲王吴克善、巴图鲁郡王满珠习礼母次妃为和硕贤妃,册文曰:“朕惟树仪型于内闸懿德聿彰。腐褒予于章。荣光特贵贲。今朕登大宝。爰仿古圣之制。以定蕃妃之封,兹尔科尔沁国次妃博礼、乃卓礼克图亲王吴克善、巴图鲁郡王满珠习礼之母也。尔能训理诸子佐理国家,故特册封为和硕贤妃。尔其益励厥心,敬承勿替,以妇道自持,以义方训子,则名显当时,德扬后世,而富贵永昌矣。钦哉,勿负朕命。丁亥,关雎宫宸妃母,小妃以封和硕贤妃,赐仪仗。偕和硕福妃入清宁宫谢恩。上降座答礼,赐宴贤妃,复献甲胄,鞍马酌纳之。</ref>.
 
==Qua đời==
Năm Sùng Đức thứ 6 ([[1641]]), [[tháng 9]], Hoàng Thái Cực dẫn quân cùng [[Khoa Nhĩ Thấm]], quyết chiến với [[Hồng Thừa Trù]] ở [[Tùng Sơn]], [[Cẩm Châu]]. Ngày [[12 tháng 9]], đặc viên được phái từ [[Thịnh Kinh]] đến chỗ Hoàng Thái Cực, thông báo bệnh của Thần phi trở nên trầm trọng. Hoàng Thái Cực nghe tin dữ, vội vàng gác lại mọi thứ, ngày đêm chạy về [[Thịnh Kinh]] thăm Hải Lan Châu. Sử liệu Triều Tiên ghi lại, lần này trên đường về Thịnh Kinh trời giá rét, Hoàng Thái Cực cũng không màng, cấp tốc chạy làm chết mất năm con ngựa tốt. Thế nhưng trước khi Hoàng đế kịp về tới nơi thì ngày [[18 tháng 9]] (tức ngày [[8 tháng 10]] dương lịch), Thần phi đã qua đời, khihưởng nămdương 33 tuổi<ref>崇德六年九月十七日: ○庚寅,至旧边驻口。是夜一鼓,盛京史臣至。奏宸妃疾笃,上即起营。遣大学士希福、刚林、梅勒章京冷僧机、启僧心郎索尼等,先驰往候问。来报,希福等以五更至京。冷僧机、索尼方至内门,闻宸妃已薨。冷僧机、索尼复驰行,于途间奏上。上闻妃薨,恸悼。卯刻,驾抵盛京,入关雎宫。至宸妃柩前,悲涕不止。诸王及内大臣劝上节哀。时王以下、牛录章京以上、固伦公主、和硕福金、和硕公主、多罗福金、多罗格格以下、梅勒章京命妇以上、俱齐集。一切丧殓之礼,悉从厚。陈设仪仗,由东侧门,出盛京地载门五里暂殡。上率诸王以下、牛录章京以上、固伦公主、和硕福金、和硕公主、多罗福金、多罗格格以下、梅勒章京命妇以上,亲送。上奠酒三爵而还,妃年三十有三。</ref><ref>崇德六年九月二十日: ○癸巳,都察院参政祖可法、张存仁,理事官马国柱、雷兴等。奏言:伏念皇上以万乘之尊为中外所仰懒,臣民之所归依。今者皇上过于悲痛,大小臣工不能自安,切思夫妇人伦大道。皇上眷爱情固难已,但以臣等愚见,皇上于情宜哀,于理未免太过矣。况天佑皇上底定天下,抚育兆民,皇上一身关系重大,天威所临,功成大捷。松山锦州克取在指,顾间此正我国兴隆明国败坏之时也。上宜仰体天意,自保圣躬。可为情牵而不自爱乎?(未完待续)</ref>.
Năm Sùng Đức thứ 6 ([[1641]]), [[tháng 9]], Hoàng Thái Cực dẫn quân cùng [[Khoa Nhĩ Thấm]], quyết chiến với [[Hồng Thừa Trù]] ở [[Tùng Sơn]], [[Cẩm Châu]]. Ngày [[12 tháng 9]], đặc viên được phái từ [[Thịnh Kinh]] đến chỗ Hoàng Thái Cực, thông báo Quan Thư cung Thần phi lâm trọng bệnh.
 
Nghe tin Thần phi qua đời, Hoàng Thái Cực cực kỳ bi ai, không thể tự chủ, khóc đến ngất nhiều lần. Sáu ngày sáu đêm cơ hồ không ăn không uống, tới sáng sớm ngày thứ bảy thì lâm vào hôn mê đến tận giữa trưa. Tang lễ Thần phi Hải Lan Châu được cử hành theo lễ Quốc tang, ngày [[29 tháng 9]], là ngày sơ tế, Hoàng Thái Cực tự mình dẫn bá quan cùng các phu nhân, tiến hành tế rượu Thần phi, tuyên đọc Tế văn chứa đầy thâm tình:
Hoàng Thái Cực nghe tin dữ, vội vàng gác lại mọi thứ, ngày đêm chạy về [[Thịnh Kinh]] thăm Hải Lan Châu. Sử liệu Triều Tiên ghi lại, lần này trên đường về Thịnh Kinh trời giá rét, Hoàng Thái Cực cũng không màng, cấp tốc chạy làm chết mất năm con ngựa tốt. Thế nhưng trước khi Hoàng đế kịp về tới nơi thì ngày [[18 tháng 9]] (tức ngày [[8 tháng 10]] dương lịch), Thần phi đã qua đời, khi năm 33 tuổi<ref>崇德六年九月十七日: ○庚寅,至旧边驻口。是夜一鼓,盛京史臣至。奏宸妃疾笃,上即起营。遣大学士希福、刚林、梅勒章京冷僧机、启僧心郎索尼等,先驰往候问。来报,希福等以五更至京。冷僧机、索尼方至内门,闻宸妃已薨。冷僧机、索尼复驰行,于途间奏上。上闻妃薨,恸悼。卯刻,驾抵盛京,入关雎宫。至宸妃柩前,悲涕不止。诸王及内大臣劝上节哀。时王以下、牛录章京以上、固伦公主、和硕福金、和硕公主、多罗福金、多罗格格以下、梅勒章京命妇以上、俱齐集。一切丧殓之礼,悉从厚。陈设仪仗,由东侧门,出盛京地载门五里暂殡。上率诸王以下、牛录章京以上、固伦公主、和硕福金、和硕公主、多罗福金、多罗格格以下、梅勒章京命妇以上,亲送。上奠酒三爵而还,妃年三十有三。</ref><ref>崇德六年九月二十日: ○癸巳,都察院参政祖可法、张存仁,理事官马国柱、雷兴等。奏言:伏念皇上以万乘之尊为中外所仰懒,臣民之所归依。今者皇上过于悲痛,大小臣工不能自安,切思夫妇人伦大道。皇上眷爱情固难已,但以臣等愚见,皇上于情宜哀,于理未免太过矣。况天佑皇上底定天下,抚育兆民,皇上一身关系重大,天威所临,功成大捷。松山锦州克取在指,顾间此正我国兴隆明国败坏之时也。上宜仰体天意,自保圣躬。可为情牵而不自爱乎?(未完待续)</ref>.
 
Nghe tin Thần phi qua đời, Hoàng Thái Cực cực kỳ bi ai, không thể tự chủ, khóc đến ngất. Sáu ngày đêm cơ hồ không ăn không uống, tới sáng sớm ngày thứ bảy thì lâm vào hôn mê đến tận giữa trưa. Tang lễ Thần phi Hải Lan Châu được cử hành theo lễ Quốc tang, ngày [[29 tháng 9]], là ngày sơ tế, Hoàng Thái Cực tự mình dẫn bá quan cùng các phu nhân, tiến hành tế rượu Thần phi, tuyên đọc Tế văn chứa đầy thâm tình:
{{Cquote|
尔生于乙酉年。享寿三十有三。薨于辛巳年九月十八日。朕自遇尔。厚加眷爱。正欲同享富贵。不意天夺之速。中道仳离。朕念生前眷爱。虽没不忘。追思感叹。是以备陈祭物。以表衷悃。仍命喇嘛僧道讽诵经文,愿尔早生福地。
Hàng 55 ⟶ 54:
Nàng sinh vào năm [[Ất Dậu]], hưởng thọ tuổi khi ba mươi ba năm. Hoăng vào năm [[Tân Tị]], ngày 18 tháng 9. Trẫm tự ngộ, Hậu thêm quyến ái. Đang muốn cùng nàng hưởng phú quý. Không ngờ trời lại đoạt nàng sớm như vậy. Nửa đường vợ chồng chia lìa. Trẫm niệm sinh thời quyến ái. Tuy không không quên. Hồi tưởng cảm thán. Này đây bị trần tế vật. Lấy biểu trung khổn. Vẫn mệnh [[Lạt-ma]] ngâm nga kinh văn, nguyện nàng sớm sinh ra nơi phúc địa.|||}}
 
Hoàng Thái Cực ở trước mộ Hải Lan Châu tự mình rót rượu, Chư vương đại thần cùng Ngoại phiên thuộc quốc đặc phái viên tế điện lễ. Tại đây sau 5 tháng, nguyệt tế, đại tế, [[Đông chí]] tế, đầy năm tế, ..., nhiều lần Hoàng Thái Cực cử hành nghi điển long trọng tế lễ, đều chứa đầy vô hạn buồn nhớ; ngày ngày đều soạn văn từ điển nhã trang trọng trong các Tế văn, biểu đạt vô tận ai ý. Thậm chí ở năm đó, khi cử hành Đại tế liệt tổ liệt tông cuối năm, Hoàng Thái Cực cũng cùng Hoàng hậu xuất đủ loại Quan lại và các Phu nhân tiến đến tế điện Hải Lan Châu. [[Tết Nguyên đán]] sang năm, Hoàng Thái Cực vì lấy đại tang của Thần phi mà đình chỉ diên yến.
 
Hoàng Thái Cực truy phong [[thụy hiệu]] cho Hải Lan Châu là '''Mẫn Huệ Cung Hoà Nguyên phi''' (敏惠恭和元妃). Thụy hiệu của bà, có chữ ''Nguyên phi'' (元妃), là danh hiệu trên thực tế dành cho Chính thê của các Quân vương thời cổ đại, bên cạnh đó, khi [[Nỗ Nhĩ Cáp Xích]] còn sống, chỉnh sửa danh vị Hậu cung, lập ra danh hiệu ''Đại phúc tấn'', còn giản gọi là ''Đại phi'' hay ''Nguyên phi''. Nếu cứ theoTheo Hán hậu cung địa vị, thì Hải Lan Châu chỉ là tần phi, nhưng nếu xét khái niệm hậu cung thời Hậu Kim, Hải Lan Châu chính là vợđược cảHoàng đốihái vớiCực Hoàngtruy Tháiphong Cựclàm vợ cả. Bà được [[chôn cất|chôn]] tại [[Chiêu lăng]] (昭陵) ở [[Thẩm Dương]].
 
Bà là phi tần có [[thụy hiệu]] dài nhất trong suốt lịch sử [[nhà Thanh]]. Có thuyết kể rằng, Thanh Thái Tông vì thương nhớ bà, ngày đêm khóc than, không lâu sau mắc bệnh nặng và băng hàsuốt hai năm sau đó ([[1643]]) rồi mắc trọng bệnh và băng hà.
 
==Trong văn hóa đại chúng==