Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Cao Văn Khánh”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
/* Thuở thiếu thời * |
|||
Dòng 12:
==Thuở thiếu thời==
Ông sinh năm 1917 tại Huế, trong một gia đình quý tộc trí thức của triều Nguyễn.
Ông có
==Con đường binh nghiệp==
Sau khi chính phủ [[Trần Trọng Kim]] được thành lập, do sự vận động của [[Phan Anh]] và [[Tạ Quang Bửu]], ông tham gia trường Quân sự Thanh niên tiền tuyến<ref>Cùng học tại đây với ông khi đó còn có [[Phan Hàm]], [[Võ Quang Hồ]], [[Đào Văn Liêu]], [[Nguyễn Thế Lâm]], [[Cao Pha]], [[Đặng Văn Việt]], [[Đoàn Huyên]], về sau đều trở thành tướng lĩnh của [[Quân đội Nhân dân Việt Nam]]</ref>. Hiệu trưởng là ông Phan Tử Lăng.
Khi [[Cách mạng tháng Tám]] nổ ra, ông
Khi quân Pháp nổ súng tại Nam Bộ, ông được cử theo đội quân Nam tiến, tiến quân vào Bình định và trở thành Ủy viên quân sự tỉnh Bình Định.
Giữa năm 1946, khi Đại đoàn 27 ra đời, ông được cử làm
Tháng 8 năm 1949, ông được điều
Từ 1950 , các cố vấn Trung Quốc yêu cầu đưa binh lính nông dân lên chỉ huy, loại bỏ dần thành phần trí thức trong quân đội, ông và các chỉ huy xuất thân trí thức đã bị ảnh hưởng nhiều qua các kỳ chỉnh huấn-chỉnh quân.
Năm 1953, Cao Văn Khánh (đại đoàn 308) và Lê Trọng Tấn (đại đoàn 312). được tướng Giáp giao nghiên cứu chuyên đề "Tiến công tiêu diệt tập đoàn cứ điểm", cơ sở để xây dựng thành phương án tác chiến trong chiến dịch Điện Biên Phủ.
Đầu năm 1954, để chuẩn bị cho [[chiến dịch Điện Biên Phủ]], ông chỉ huy một bộ phận của đại đoàn này, cơ động mở đường hành quân sang Lào, tấn công quân Pháp dọc tuyến sông Nậm Hu, nhằm tiêu hao lực lượng có khả năng tiếp viện và bịt trước đường rút lui dự kiến của binh đoàn Pháp tại lòng chảo Điện Biên.
Sau Hiệp định Genève, ông
Tháng 4 năm 1958, ông giữ chức Cục trưởng Cục tổ chức Kế hoạch, kiêm Cục trưởng Cục Nhà trường, thuộc Tổng cục Quân huấn <ref>Do Thiếu tướng [[Hoàng Văn Thái]] làm Tổng cục trưởng</ref>.
Tháng 10 năm 1960, ông trở thành Hiệu trưởng [[trường Đại học Trần Quốc Tuấn|trường Sĩ quan Lục quân
Tháng 3 năm 1964, ông được điều vào chức vụ Phó tư lệnh, kiêm Tham mưu trưởng [[Quân khu 3, Quân đội Nhân dân Việt Nam]]
Từ năm 1966 đến 1969, ông lần lượt giữ các chức vụ Phó tư lệnh của Chiến trường B3, Quân khu Trị Thiên, [[Quân khu IV]].
Đến tháng 5 năm 1970, ông được điều làm Tư lệnh Mặt trận 968 Hạ Lào. Tháng 10 năm 1970,
Từ tháng 2 năm 1971, ông là Phó tư lệnh Mặt trận Đường 9 Nam Lào, rồi Tư lệnh Mặt trận B5, kiêm Phó tư lệnh [[Quân khu 4, Quân đội Nhân dân Việt Nam]]. Ông chính là kiến trúc sư của chiến dịch nổi tiếng Đường 9 Nam Lào (Lam Sơn 719).
Từ tháng 12 năm 1972, ông trở thành Tư lệnh Quân khu Trị Thiên. Có thể nói, Cao Văn Khánh gắn bó với chiến trường miền Trung và Tây Nguyên suốt cuộc chiến tranh chống Mỹ, liên tục với các chiến dịch lớn như Đắc Tô (
Năm 1974, ông được điều về
Năm 1978, trên cương vị Phó Tổng Tham mưu trưởng thứ nhất, ông chủ trì biên soạn "Năm phương thức tác chiến trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc", chuẩn bị cho cuộc chiến tranh biên giới với Trung Quốc.
[[Thiếu tướng]] (1974), rồi [[Trung tướng]] (1980)
Ông mất năm 1980
Vợ ông từ chối an táng chồng tại nghĩa trang Mai Dịch (dành cho cán bộ cao cấp). mà chọn nghĩa trang nhân dân Bất Bạt, để ông được nằm cạnh đồng đội đại đoàn 308 tại chiến trường năm xưa, và cạnh hai con trai ông, cũng được chôn tại đây.
==Cuộc sống gia đình==
Hàng 66 ⟶ 74:
Người con trai đầu tên là '''Cao Quý Vũ''', là học sinh trường Nguyễn Văn Trỗi <ref>Trường dành cho con em cán bộ cao cấp đang công tác tại miền Nam</ref>, đã qua đời trong chiến tranh.
Người con trai thứ là '''Cao Quý Bảo''' từng phục vụ bộ đội, đã rời ngũ và hiện là doanh nhân, chủ nhân khu Resort Vạn Chài ở Thanh Hóa. Người con gái duy nhất là [[Cao Thị Bảo Vân|'''Cao Thị Bảo Vân''']] hiện là Phó Giáo sư, Tiến sĩ Dược khoa, Viện phó Viện Paxtơ thành phố Hồ Chí Minh.
Người con trai út là '''Cao Quý Anh''' đã qua đời vào năm 2003 do bệnh ung thư gan từ di chứng của Dioxin.
|