Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Hồ Nguyên Trừng”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 63:
{{cquote|'' Mệnh trời là ở lòng dân. Câu nói của Trừng hiểu được điều cốt yếu đó. Không thể vì cớ là họ Hồ mà bỏ câu nói của Trừng.''|||''Đại Việt Sử ký Toàn thư''}}
 
=== Đánh quân Minh lần thứ nhất ===
Tháng 4 âm lịch năm 1406, [[Minh Thành Tổ]] viện cớ phục ngôi cho [[Trần Thiêm Bình]] (tên thật Nguyễn Khang, giả mạo làm con thứ 3 của [[Trần Nghệ Tông]]), sai Chinh Nam tướng quân Hữu quân đô đốc đồng tri Hàn Quan và Tham tướng đô đốc đồng tri Hoàng Trung mang 10 vạn quân từ [[Quảng Tây]] đánh Đại Ngu. Tả tướng quốc Hồ Nguyên Trừng đem đại quân đón đánh ở ải Lãnh Kinh. Theo ''[[Đại Việt Sử ký Toàn thư]]'', quân Đại Ngu thấy địch ít quân nên khinh suất, để bị thảm bại. 4 đại tướng Đại Ngu là Phạm Nguyên Khôi (nhị vệ đại tướng), Chu Bỉnh Trung (chỉ huy quân Chấn Cương), Trần Huyên Huyên (chỉ huy quân Tam Phụ), Trần Thái Bộc (chỉ huy quân Tả Thần Dực) đều chết trận. Hồ Nguyên Trừng bỏ thuyền lên bờ, suýt bị quân Minh bắt, có người thấy vậy liền dìu ông xuống thuyền, nhờ vậy ông thoát. Sau tướng Hồ Vấn bất ngờ đem quân Tả Thánh Dực từ Vũ Cao tới, đánh quân Minh thua to. Hoàng Trung đợi đến trống canh hai nửa đêm thì bỏ chạy. Vua [[Hồ Hán Thương]] đã sai tướng Hồ Xạ chỉ huy quân Hữu Thánh Dực, tướng Trần Đĩnh chỉ huy quân Thánh Dực Bắc Giang khóa chân địch tại cửa ải Chi Lăng. Quân Minh đành giao nộp Trần Thiêm Bình cho Đại Ngu để được rút về nước. Sau vua Hồ xử lăng trì Trần Thiêm Bình.{{sfn|Ngô Sĩ Liên|1993|pp=303-305.}}{{sfn|Quốc sử quán triều Nguyễn|1998|pp=333-334.}}
 
=== Đánh quân Minh lần thứ hai ===
Tháng 9 âm lịch năm 1406, Minh Thành Tổ lại sai Chinh Di phó tướng quân Tân thành hầu [[Trương Phụ]], Tham tướng Huỳnh Dương bá Trần Húc đem 40 vạn quân đánh ải Pha Lũy, cùng lúc Chinh Di tả phó tướng quân Tây bình hầu [[Mộc Thạnh]], Tham tướng hữu quân đô đốc đồng tri Phong Thành hầu [[Lý Bân]] đem 40 vạn quân đánh ải Phú Lệnh. Quân Minh nhanh chóng vượt qua biên giới. Đến tháng 11, 2 cánh quân Minh gặp nhau ở Bạch Hạc, bày doanh trại ở bờ bắc sông Cái, đến tận Trú Giang. Hồ Hán Thương sai đại quân đóng đối diện với doanh trại quân Minh, quân ở sông Cái do Hồ Nguyên Trừng chỉ huy, quân ở Trú Giang do Thiêm văn triều chính Hồ Đỗ chỉ huy. Phía ngoài liên kết chiến hạm của thủy quân, trên bờ thì quân bộ đóng.{{sfn|Ngô Sĩ Liên|1993|p=307}} Việc ông lập một phòng tuyến chống giặc bắt đầu bằng cứ điểm then chốt Đa Bang (Ba Vì) kéo dài theo bờ Nam Sông Đà, sông Hồng cho đến sông Ninh (Nam Hà) rồi lại tiếp tục theo bờ sông Luộc, sông Thái Bình đến Bình Than dài trên 400&nbsp;km. Hồ Nguyên Trừng cũng sáng tạo ra cách đánh độc đáo: ông cho đúc nhiều dây xích lớn chăng qua những khúc sông hiểm trở, kết hợp với quân mai phục trang bị bằng hỏa lực mạnh. Hồ Nguyên Trừng tổ chức những xưởng đúc súng lớn. Ông đã phát minh, chế tạo ra nhiều loại súng có sức công phá mạnh. Từ việc cải tiến súng, chế thuốc súng, hiểu rõ sức nổ của thuốc đạn Hồ Nguyên Trừng phát minh ra phương pháp đúc súng mới gọi là súng "thần cơ".<ref name="kyluc.vn"/>