Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Mẫn Huệ Cung Hoà nguyên phi”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 28:
 
==Đại Thanh Thần phi==
Năm Vạn Lịch thứ 42 ([[1614]]), [[Hiếu Đoan Văn Hoàng hậu|Triết Triết]] kết hôn với người kế thừa [[Hậu Kim]] là [[Hoàng Thái Cực]], được phong [[Phúc tấn|Đại Phúc tấn]]. Dưới thời [[Hậu Kim]], các [[Khả hãn|Đại Hãn]] Ái Tân Giác La thị rất xem trọng liên hôn với Mông Cổ, do đó hoàng tử sinh bởi ác Phúc tấn người Mông Cổ sẽ được ưu ái. Vậy mà trong nhiều năm, Đại Phúc tấn sinh 3 hoàng nữ mà không sinh đoàng tử nối dõi có dòng máu [[Ái Tân Giác La]] và [[Bác Nhĩ Tề Cát Đặc]]. Năm Thiên Mệnh thứ 10 ([[1625]]), Trại Tang tiến cử ĐạiBố NgọcMộc NhiBố Thái làm [[Phúc tấn|Trắc Phúc tấn]] cho Hoàng Thái Cực. Nhưng suốt 9 năm Đại Ngọc Nhi cũng chỉ sinh 3 công chúa mà chưa sinh được con trai.
 
Năm Thiên Thông thứ 8 ([[1634]]), Thân vương [[Ngô Khắc Thiện]], lúc đó là Đài cát của Khoa Nhĩ Thấm, mang theo em gái Hải Lan Châu nhập cung. Đại Hãn Hoàng Thái Cực cùng các Phúc tấn bày yến nghênh tiếp, phong bà làm Trắc Phúc tấn<ref>《清入关前内国史院满文档案》记载:“天聪八年(1634年)十月十六日。科尔沁部乌克善洪台吉率诸臣送妹至。汗偕诸福晋迎至,设大宴纳之为福晋。”</ref>. Nhiều thuyết khác nhau lý giải việc bà được gả cho Hoàng Thái Cực trễ hơn người em gái ĐạiBố NgọcMộc NhiBố Thái nhiều năm, tuy nhiên sử sách không chứng minh bất kỳ ghi chép nào là đúng:
 
* Có thuyết tương truyền Hải Lan Châu và ĐạiBố Mộc NgọcBố NhiThái là chị em cùng cha khác mẹ. Mẹ Ngô Khắc Thiện và ĐạiBố Mộc NgọcBố NhiThái là vợ cả của Trại Tang, [[Phúc tấn|Đại phi]] của Khoa Nhĩ Thấm tộc; còn mẹ Mãn Châu Tập Lễ và Hải Lan Châu chỉ là [[Thiếp|Tiểu phi]]. Khác với ĐạiBố Mộc NgọcBố NhiThái, bà không được xem là [[Cách cách]] (格格) và bị mẹ của ĐạiBố Mộc NgọcBố NhiThái ngược đãi từ bé. Bà phải làm việc như [[Nô lệ|nô tì]], mãi không xuất giá. Về sau, trong cung có lời đồn nữ nhi thuộc Khoa Nhĩ Thấm tộc không có phúc sinh con trai kế thừa [[Hậu Kim]]. Tình thế bất lợi, Trại Tang tiếp tục tiến cử con thứ Hải Lan Châu cho Đại Hãn.
* Có thuyết lại kể rằng Hải Lan Châu đã từng gả cho '''Trác Lâm''' (桌林), một tướng sĩ của Khoa Nhĩ Thấm tộc. Trong một lần ra chiến trường, Trác Lâm tử trận, Hải Lan Châu trở thành góa phụ. Sau đó, bà vào cung thăm Đại Ngọc Nhi, được Hoàng Thái Cực để mắt và ân hạnh, nạp làm Trắc thất. Năm đó Hải Lan Châu 26 tuổi, trễ hơn nhiều so với lứa tuổi xuất giá lúc bấy giờ (khoảng từ 13 đến 18), vì vậy rất có khả năng bà từng kết hôn trước đó.
 
Hải Lan Châu trở thành Phúc tấn được sủng ái nhất của Hoàng Thái Cực. Bất luận xuất thân thấp kém, Hoàng Thái Cực vẫn vô cùng ân ái bà hơn hẳn Đại Phúc tấn Triết Triết và ĐạiBố NgọcMộc NhiBố Thái. Đối với bà, Hoàng Thái Cực có thể nói là rêu rao chỉ sợ thiên hạ không biết tình yêu của mình nhiều thế nào.
 
Năm Sùng Đức nguyên niên ([[1636]]), Đại Hãn Hoàng Thái Cực xưng [[Hoàng đế]], thành lập [[nhà Thanh]]. Ông phong Đại phúc tấn Triết Triết làm [[Hoàng hậu]], cư ở [[Thanh Ninh cung]] và lập ra '''Tứ phi''' (四妃), gồm có: ''Thần phi'' (宸妃), ''Quý phi'' (貴妃), ''Thục phi'' (淑妃) và ''Trang phi'' (莊妃). ĐạiBố NgọcMộc NhiBố Thái được nạp trước Hải Lan Châu 9 năm nhưng chỉ được phong ''Trang phi,'', ban [[Vĩnh Phúc cung]], vị trí thấp nhất trong Tứ phi. Hải Lan Châu được phong địa vị cao nhất chúng phi là '''Thần phi''', chỉ dưới Thanh Ninh cung Hoàng hậu. Bà được ban [[Quan Thư cung]] nên gọi là ''Quan Thư cung Thần phi'' (宫宸妃宸妃). Hoàng Thái Cực đặt tên cho cung điện này dựa theo bài ''Quan Thư'' trong [[Kinh Thi]]: ''"Quan quan thư cưu, tại hà chi châu. Yểu điệu thục nữ, quân tử hảo cầu."''<ref>Nguyên văn: 關關雎鳩,在河之洲. 窈窕淑女,君子好逑</ref>. Câu thơ từ xưa thể hiện tình thâm ý trọng của nam nhân đối với vợ mình, cho thấy vinh sủng cao tựa trời của Hoàng Thái Cực dành cho Thần phi.
 
Năm Sùng Đức thứ 2 ([[1637]]), ngày [[8 tháng 7]] (tức ngày [[27 tháng 8]] dương lịch), Thần phi Hải Lan Châu sinh hạ Hoàng bát tử. Hoàng Thái Cực rất mực yêu thương Hoàng bát tử, nhân ngày sinh của Hoàng tử ban chiếu cáo đại xá thiên hạ, cũng là chiếu cáo đại xá đầu tiên trong lịch sử nhà Thanh<ref>崇德二年,宸妃生下皇八子,皇太极欣喜若狂,很快就决定立这个婴儿为皇位继承人,大宴群臣,还颁发了大清朝第一道大赦令。大赦令中规定,除犯上、焚毁宗庙、陵寝、宫殿,叛逃杀人,毒药,巫蛊,偷盗祭天及御用器物,殴祖父母、父母,卖兄弟、妻诬告夫、内乱、纠党白昼劫人等十罪不赦外,一切监禁之人全部免罪。(此道颁发令如下记载。八天后他在盛京皇宫举行重大庆典的大政殿,为皇八子的诞生颁发了有清以来的第一道大赦令。诏令中写道:“自古以来,人君有诞子之庆,必颁诏大赦于国中,此古帝王之隆规。今蒙天眷,关雎宫宸妃诞育皇嗣,朕稽典礼,欲使遐迩内外政教所及之地,咸被恩泽……”。诏令中规定了除十恶之罪不赦外,其余等罪,“咸赦除之”。)</ref><ref>崇德二年七月十六日: ○壬午。以关雎宫宸妃、诞生皇子。集文武群臣於笃恭殿、颁诏大赦。制曰:自古以来、人君有诞子之庆、必颁大赦于国中。此古帝王之隆规。今蒙天眷。关雎宫宸妃、诞育皇嗣。朕稽典礼。欲使遐尔内外政教所及之地、咸被恩泽。除犯上、焚毁宗庙陵寝宫殿、叛逃、杀人、毒药巫蛊、盗祭天及御用器物、敺祖父母父母、兄卖弟、妻诬告夫、内乱、纠党白昼劫人财物、此十罪俱不赦外。其余逃亡、遗失物件、被人认出者、令还原主。免其罪。互相借货者、照旧偿还。见在羁禁之人、及一切诖误小过,窃_盗隐匿等罪、咸赦除之。有以赦前事告者、毋听仍以所告之罪罪之。已结案定罪、赎锾未完者、照常追取。虽经议罪、而未定案者、赦免。赦后有犯者、依律治罪。</ref>. Việc ban chiếu đại xá mừng sinh thần của Hoàng tử chỉ có lệ dành cho [[Trữ quân]], việc này tỏ rõ sự sủng ái của Hoàng Thái Cực đối với 2 mẹ con Thần phi và có thể thấy ông đã sớm có ý phong đứa con trai này làm [[Thái tử]]. Không chỉ Hoàng Thái Cực ban chiếu đại xá, các Ngoại phiên vương công Mông Cổ cũng lấy việc Hoàng bát tử ra đời để dâng biểu thượng chúc mừng<ref>崇德二年八月初五日: ○庚子。外藩蒙古诸贝勒、以诞生皇子。上表称贺。上御崇政殿。巴林部落阿玉石、卫寨桑、毛祁他特、扎鲁特部落内齐、喇巴泰、台吉塞冷、戴青达尔汉、沙里、达尔马等、行庆贺礼。表文曰。巴林部落阿玉石等、诚惶诚恐跪奏。恭遇宽温仁圣皇帝。诞生皇子臣等闻之喜不自胜。谨赍庆贺礼物进献。次阿坝垓部落台吉塞尔扎尔得尔格尔乌朱穆秦部落台吉宜思哈布等行礼。表文曰。阿霸垓部落台吉塞尔扎尔等。诚惶诚恐跪奏宽温仁圣皇帝。恩德溥及外藩。臣等顶戴洪慈。不胜喜悦谨具礼物进献。次土默特部落俄木布楚虎尔行礼。</ref><ref>崇德二年八月十一日: ○丙午。崇德二年八月十一日。是日、科尔沁国土谢图亲王巴达礼、固伦额驸班第、扎萨克图郡王布塔齐等。以关雎宫宸妃、诞生皇子。遣官进献貂裘、牛、马、貂皮等物。</ref><ref>崇德二年八月十八日: ○癸丑。是日、上率和硕亲王、多罗郡王、多罗贝勒、固山贝子、于辰刻。出怀远门、至演武场较射。上御黄幄。适外藩蒙古四子部落达尔汉卓礼克图俄木布、巴林部落满珠习礼等、关雎宫宸妃、诞生皇子。遣使进献驮马上表庆贺。上命树的。与马哈撒嘛谛塞臣汗、及谢图汗下诸臣较射。选善射者、每旗各十人。分左右翼。令之角胜。负者罚牛羊。和硕亲王、多罗郡王、多罗贝勒、固山贝子等。亲率较射。右翼诸王贝勒贝子等、射中独多。得牛二、羊二十。又令左右各出力士。令之角觝。右翼诸王贝勒贝子等负。还所得左翼牛一。羊二。於是令左翼和硕睿亲王多尔衮、和硕豫亲王多铎、多罗贝勒豪格、多罗饶余贝勒阿巴泰等射。负者俱立、宴右翼诸王贝勒之射胜者。宴毕。并命外藩朝贡贝勒及诸臣、依次列坐。设宴宴之。申刻。上还宫。酌纳达尔汉卓礼克图俄木布、满珠习礼等。所献驮马。科尔沁国土谢图亲王巴达礼、札萨克图郡王布塔齐、彩缎、布疋等物。时上命两翼较射。岳托奏曰。臣不能执弓。上曰。尔徐引射之。尔不射、恐他翼诸王贝勒贝子等不从。谕之者三。岳托始起射。及引弓、堕地五次。岳托遂以所执弓、向诸蒙古掷之。於是诸王、贝勒、贝子、固山额真、议政大臣、刑部承政、会审。以岳托素志骄傲。妄自尊大。今败露于众人之前。如此罪恶。难以姑容。应论死。奏闻。上不听。又议幽禁别室。籍没家产。上仍不听。又议夺所属人员。罚银五千两。解兵部任。削贝勒爵。上命免夺所属人员。解兵部任。降贝勒为贝子。罚银五千两。暂令不得出门。</ref><ref>崇德三年正月初一日: ○其上皇太子笺文曰。朝鲜国王臣李倧、恭逄崇德三年正月初一日元旦节。谨奉笺称贺者。臣倧诚懽诚忭稽首顿首上言。伏以三微启序。回协气於紫宫。二极承乾。譪祥云於青殿。鸿庥川至。燕贺雷腾。恭惟皇太子殿下。德量渊冲。英姿玉裕。夙播仁闻。允孚远近之望。密赞神功。方开亨泰之运。兹当端月之会。益增前星之辉。伏念臣叨续先基。实荷皇眷。蹄涔迹滞。纵阻呼嵩之班。鹤禁心悬。敢愆事大之礼。臣无任激切屏营之至。谨奉笺称贺。献皇太子礼品数目如下:细白娟十五匹,白□□十匹。皂青葛布十匹和,黄色花席十张,花席十张,清花方序十张,各式纯花序十张,豹皮六张,白纸五百刀。</ref>.
 
Thế nhưng năm sau ([[1638]]), ngày [[28 tháng 1]] (âm lịch), Hoàng tử bất hạnh bị chết yểu, chưa kịp đặt tên. Thần Phi vô cùng đau xót, đả kích lớn đến nỗi lâm bệnh. Hoàng Thái Cực an ủi bà, lệnh trong cung không bày yến tiệc nhiều năm. Trang phi Đại Ngọc Nhi hạ sinh Hoàng cửu tử [[Phúc Lâm]] (tương lai [[Thanh Thế Tổ]]), hay Quý phi [[Na Mộc Chung]] hạ sinh Hoàng thập nhất tử [[Bát Mục Quả Nhĩ]], Hoàng Thái Cực cũng lạnh lùng không tổ chức đại yến. Để làm Thần phi vui lòng, Hoàng Thái Cực phong mẹ của Thần phi là Khoa Nhĩ Thẩm Tiểu phi làm '''Hòa Thạc Hiền phi''' (和硕贤妃)<ref>崇德四年正月二十八日: ○丙戌,册封科尔沁国卓礼克图亲王吴克善、巴图鲁郡王满珠习礼母次妃为和硕贤妃,册文曰:“朕惟树仪型于内闸懿德聿彰。腐褒予于章。荣光特贵贲。今朕登大宝。爰仿古圣之制。以定蕃妃之封,兹尔科尔沁国次妃博礼、乃卓礼克图亲王吴克善、巴图鲁郡王满珠习礼之母也。尔能训理诸子佐理国家,故特册封为和硕贤妃。尔其益励厥心,敬承勿替,以妇道自持,以义方训子,则名显当时,德扬后世,而富贵永昌矣。钦哉,勿负朕命。丁亥,关雎宫宸妃母,小妃以封和硕贤妃,赐仪仗。偕和硕福妃入清宁宫谢恩。上降座答礼,赐宴贤妃,复献甲胄,鞍马酌纳之。</ref>.
 
==Qua đời==