Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Minh Anh Tông”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n font lint |
Không có tóm lược sửa đổi |
||
Dòng 48:
| kế nhiệm 1 = [[Minh Hiến Tông|<font color="blue">Minh Hiến Tông</font>]]
| tên đầy đủ = Chu Kì Trấn (朱祁鎮)
| vợ = [[Hiếu Trang Duệ
| thông tin con cái = ẩn
| con cái = [[Minh Hiến Tông]]<br>Và 8 hoàng tử, 10 công chúa.
Dòng 57:
| thụy hiệu = <font color = "grey">Pháp Thiên Lập Đạo Nhân Minh Thành Kính Chiêu Văn Hiến Vũ Chí Đức Quảng Hiếu Duệ hoàng đế</font><br>(法天立道仁明誠敬昭文憲武至德廣孝睿皇帝)
| cha = [[Minh Tuyên Tông]]
| mẹ = [[Hiếu Cung Chương
| sinh = {{ngày sinh|1427|11|29}}
| mất = {{ngày mất và tuổi|1464|2|23|1427|11|29}}
Dòng 64:
'''Minh Anh Tông''' ([[chữ Hán]]: 明英宗, [[29 tháng 11]], [[1427]] – [[23 tháng 2]], [[1464]]), là vị [[Hoàng đế]] thứ 6 và thứ 8 của [[nhà Minh]] trong [[lịch sử Trung Quốc]]. Ông trị vì hai lần với niên hiệu '''Chính Thống''' (正統) từ năm [[1435]] tới năm [[1449]] và niên hiệu '''Thiên Thuận''' (天順) từ năm [[1457]] tới năm [[1464]].<ref>{{Chú thích sách|title=The Making of the Chinese State: Ethnicity and Expansion on the Ming Borderlands |author= Leo K. Shin|year= 2006|publisher=Ấn bản Đại học Cambridge |url=http://books.google.com/books?vid=ISBN0521853540&id=DOb-4JU18UAC&pg=RA2-PA159&lpg=RA2-PA159&ots=ateFoeCLyZ&dq=%22Zhengtong+Emperor%22&ie=ISO-8859-1&output=html&sig=CPjWuJzTIMJ_A2ibM4UkL3QPqAU|id=ISBN 0-521-85354-0 }}</ref>
Anh Tông
Do triều thần có người muốn Anh Tông Thái Thượng hoàng phục tịch khiến Đại Tông
== Thời trẻ ==
Anh Tông
Năm [[1428]], [[tháng 2]], khi mới 3 tháng tuổi, ông được Minh Tuyên Tông lập làm [[Hoàng thái tử]].
Năm [[1435]], [[tháng giêng]], Tuyên Đức
Ngày 10 tháng 1 năm đó, Chu Kỳ Trấn được lập lên nối ngôi, khi đó, ông chỉ vừa 8 tuổi. Do còn nhỏ, ông được bà nội là Thành Hiếu Chiêu Thái hoàng
== Thời kỳ Chính Thống ==
Minh Anh Tông còn nhỏ, Trương
Từ khi là
Do sự chuyên quyền của Vương Chấn, Trương
Nhiều quan lại sợ Vương Chấn nên ra sức lấy lòng Chấn, nhiều người muốn bản tấu được phê đều phải đút lót cho Vương Chấn. Trong số đó không phải tất cả đều mưu đồ cá nhân, cũng có những viên quan như Chu Thầm nhờ đó mà làm lợi cho địa phương mình<ref name="vth308">Vương Thiên Hữu, sách đã dẫn, tr 308</ref>.
Dòng 172:
Minh Anh Tông bị Đại Tông khống chế ở [[Diên An cung]], còn gọi là Nam Cung hay [[Tiểu Nam Thành]], nhỏ bé hơn nhiều so với Tử Cấm Thành cũ mà ông từng ở khi còn ở ngôi. Ông bị Đại Tông cử người canh giữ nghiêm ngặt.
Ngày [[11 tháng 11]] là ngày sinh thứ 23 của ông, [[Minh Đại Tông]] đã từ chối kiến nghị của một số quan lại Bộ Lễ về việc cử hành long trọng mừng sinh nhật ông. Cuối năm đó, Thượng thư Bộ Lễ là Hồ Hoàng lại đề nghị tới [[Tết Nguyên Đán|Tết nguyên đán]] để mọi người tới chúc mừng [[thái thượng hoàng|Thái Thượng hoàng]], nhưng Đại Tông cũng cự tuyệt. Sang những năm sau, năm nào Bộ Lễ cũng đề nghị cử hành lễ chúc mừng ông khi tới dịp nhưng không được Đại Tông chấp thuận<ref>Vương Thiên Hữu, sách đã dẫn, tr 338</ref>.
Sang năm [[1452]], con Anh Tông là
Minh Anh Tông bị canh giữ chặt chẽ. [[Hoạn quan]] Nguyễn Lãng và Vương Dao từng nhận đồ dùng do ông tặng mang ra ngoài, liền bị Đại Tông bắt giam, kết quả cả hai cùng chết. Đến năm [[1455]], Đại Tông theo kiến nghị của hoạn quan Cao Bình, sai chặt hết cây cối của cung Diên An để đề phòng những người lén lút vượt tường cao qua lại với ông.
Cuộc sống hằng ngày của ông cũng rất vất vả, chỉ còn lại số rất ít các thị vệ, thức ăn chỉ được đưa qua lỗ nhỏ, vừa ít vừa kém chất. Hoàng hậu Tiền thị phải làm việc ngày đêm, làm ra được một số đồ thêu mang bán để đổi lấy đồ ăn thức uống, bên nhà mẹ Tiền
=== Binh biến Đoạt môn ===
Dòng 236:
Năm Thiên Thuận thứ 8 ([[1464]]), ông không còn tự mình xử lý công việc được nữa, nên lệnh cho Hoàng thái tử [[Minh Hiến Tông|Chu Kiến Thâm]] lên [[Văn Hoa điện]] để [[nhiếp chính]]. Ngày 16 [[tháng chạp]], bệnh quá nặng, Hoàng đế tự liệu không thể qua khỏi, bèn triệu Hoàng thái tử và văn võ bá quan đến bên giường dặn dò. Ông dặn Thái tử mấy việc:
* [[Hiếu Trang Duệ hoàng hậu|Tiền
* Bãi bỏ chế độ [[tuẫn táng]] phi tần (phi tần bị chôn sống) theo ông sau khi ông qua đời<ref name="vth359">Vương Thiên Hữu, sách đã dẫn, tr 359</ref>.
Năm [[1464]], ngày 17 tháng 1 ÂL, Hoàng đế băng hà đúng 7 năm sau ngày ông trở lại ngôi<ref name="vth361">Vương Thiên Hữu, sách đã dẫn, tr 361</ref>, thọ 38 tuổi. Thái tử Chu Kiến Thâm lên nối ngôi, tức là [[Minh Hiến Tông]] Thành Hóa
[[Tháng 2]] năm đó, ông được tôn [[thụy hiệu]] là '''Pháp Thiên Lập Đạo Nhân Minh Thành Kính Chiên Văn Hiến Vũ Chí Đức Quang Hiếu Duệ
Tháng 5 năm đó, ông được [[chôn cất|chôn]] ở [[Dụ Lăng]] (裕陵) trong [[Lăng mộ nhà Minh|Minh thập tam lăng]].
Dòng 248:
Minh Anh Tông không được sử sách đánh giá cao. Thời đại ông sống là giai đoạn chuyển tiếp từ thịnh sang suy của nhà Minh, ông không có biện pháp hiệu quả nào để ngăn chặn tình hình xấu đi. Minh Anh Tông tin dùng gian thần khiến nền chính trị suy đồi.
Sử gia hiện đại [[Mạnh Sâm]], người có những công trình biên soạn, nghiên cứu và đánh giá về lịch sử thời [[Minh]] - [[Thanh]]<ref>Boorman et al., 32–34.</ref> cho rằng [[Minh Anh Tông]] Thiên Thuận
Sang lần làm vua thứ 2, ông có được một vài thành tựu: ngăn chặn quyền thần, bãi bỏ chế độ tuẫn táng cung phi theo vua đã hình thành từ các triều đại trước<ref name="vth359"/><ref>Hồ Hán Sinh, sách đã dẫn, tr 300</ref>. Việc bãi bỏ chế độ tuẫn táng của ông được xem là đáng lưu lại thịnh đức cho đời sau<ref name="vth359"/>.
Dòng 254:
== Gia đình ==
* Cha: [[Minh Tuyên Tông]] Chu Chiêm Cơ.
* Mẹ: [[Hiếu Cung Chương hoàng hậu|Hiếu Cung Chương Hoàng hậu]] Tôn thị (孝恭章皇后孙氏, 1399 - 1462), người Trân Bình, [[Sơn Đông]]. Cha bà là Vĩnh Thành huyện chủ bộ [[Tôn Trung]] (孙忠). Nhập cung phong vị [[Quý phi]], rất được Tuyên Tông sủng ái. Sau khi [[Cung Nhượng Chương hoàng hậu|Hồ
=== Hậu phi ===
# [[Hiếu Trang Duệ hoàng hậu|Hiếu Trang Duệ Hoàng hậu]] Tiền thị (孝莊睿皇后錢氏, 1426 - 1468), con gái Đô chỉ huy thiên sự [[Tiền Quý]]. Trong thời gian Anh Tông bị cầm tù ở Mông Cổ, bà từng bán hết tài sản riêng, cầu Trời Phật phù hộ cho Anh Tông. Do khóc nhiều và đau khổ, bà bị bệnh, liệt một chân và bị mù<ref>Hồ Hán Sinh, sách đã dẫn, tr 301</ref>
# [[Hiếu Túc hoàng hậu|Hiếu Túc Hoàng hậu]] Chu thị (孝肅皇后周氏, 1430 - 1504), người [[Xương Bình]], con gái Cẩm y vệ Thiên hộ Ninh quốc công [[Chu Năng]] (周能). Xuất thân cung nữ, sau vào hầu Anh Tông thì đắc sủng, sơ phong là [[Quý phi]]. Bà sinh ra [[Minh Hiến Tông]] và Sùng Giản vương [[Chu Kiến Trạch]] và [[Trùng Khánh Công chúa]]
# [[Tĩnh Trang An Mục Thần phi]] Vạn thị (靖莊安穆宸妃万氏, 1431 - 1468), cha là [[Vạn Tụ]] (万聚), vốn chỉ là lính hầu, sau nhờ con gái làm phi mà tấn phong lên hàng Chính ngũ phẩm ''Cẩm y vệ Thiên hộ''. Sinh hạ 6 người con: Đức Trang vương [[Chu Kiến Lân]], Tam tử [[Chu Kiến Thực]], Cát Giản vương [[Chu Kiến Tuấn]], Hãn Mục vương [[Chu Kiến Trị]], [[Thuần An Công chúa]], [[Quảng Đức Công chúa]]. Là phi tần sinh nhiều con nhất trong hậu cung của Anh Tông
# [[Đoan Tĩnh An Hòa Huệ phi]] Vương thị (端靖安和惠妃王氏, 1429 - 1485), người [[Đại Hưng, Bắc Kinh|Đại Hưng]], cha là Chính lục phẩm ''Cẩm y vệ Thiên hộ'' [[Vương Bân]], mẹ là Phạm thị (范氏). Sinh hạ [[Gia Thiện Công chúa]] và Hứa Điệu vương [[Chu Kiến Thuần]] chết yểu
Dòng 292:
|1
|[[Minh Hiến Tông|Chu Kiến Thâm]]<br>朱見深
|'''Hiến Tông Thuần
|9 tháng 12, 1447
|9 tháng 9, 1487
|[[Hiếu Túc hoàng hậu|Hiếu Túc Hoàng hậu]]
|
|Đăng cơ năm 1464
Dòng 340:
|2 tháng 5, 1455
|27 tháng 8, 1505
|[[Hiếu Túc hoàng hậu|Hiếu Túc Hoàng hậu]]
|''Sùng Giản Vương phi'' Dư thị (崇简王妃余氏), con gái của Binh mã chỉ huy Dư Tín (余信)
|Có ba con trai
Dòng 390:
|1461
|Chu Cảnh (周景)
|[[Hiếu Túc hoàng hậu|Hiếu Túc Hoàng hậu]]
|Con trai là Chu Hiền (周賢)
|-
|