Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nam Ông mộng lục”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 7:
Dưới triều [[nhà Trần]], Hồ Nguyên Trừng từng giữ chức Thượng Lân tự, Tư đồ. Đầu năm [[1400]], cha ông truất ngôi [[Trần Thiếu Đế]], tự lên ngôi vua, lập nên [[nhà Hồ]]. Sau đó, Hồ Nguyên Trừng được cử làm Tả tướng quốc.
 
Năm [[14051406]], lấy cớ "Phù [[Nhà Trần|Trần]] diệt [[Nhà Hồ|Hồ]]", vua [[nhà Minh]] lấysai cớTrương đòiPhụ đất LộcMộc ChâuThạnh cửmang 80 [[vạn]] quân sang đánh nước Việt. Năm [[1406]], Hồ Nguyên Trừng được giao nhiệm vụ cầm quân chống lại.
 
Ngày [[12 tháng 5]] ([[âm lịch]]) năm [[Đinh Hợi]] ([[1407]]), cả ba cha con ông và người cháu là Hồ Nhuế (con [[Hồ Hán Thương]]) đều bị quân [[nhà Minh]] bắt tại Kỳ La ([[Kỳ Anh]], [[Hà Tĩnh]]), rồi bị áp giải về Kim Lăng ([[Nam Kinh]], [[Trung Quốc]]). Kể từ đó, [[nhà Hồ]] mất, cả nước Việt rơi vào ách thống trị của [[nhà Minh]].
Dòng 13:
Biết được Hồ Nguyên Trừng (và Hồ Nhuế) có tài năng, vua [[Minh Anh Tông]] cho ân xá, nhưng buộc phải đổi họ khác (vì không thừa nhận gia đình ông là dòng dõi [[Thuấn|Ngu Thuấn]]<ref>Chi tiết này căn cứ theo ''Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam'' (tr. 277). Thông tin thêm: Lê Quý Ly sở dĩ đổi sang họ Hồ vì tự nhận mình là dòng dõi vua [[Thuấn]]. Xem chi tiết ở trang [[Hồ Quý Ly]].</ref>). Vì vậy ở sách ''Nam Ông mộng lục'', tác giả đề tên là '''Lê Trừng''' (đổi lại họ Lê như cũ).
 
Sau, ông chế tạo được súng thần công, nên lại được làm quan ở [[Bộ Công]], thăng đến chức Tả thị lang như lời ông đề ở cuối bài Tựa trong quyển ''Nam Ông mộng lục''<ref>Phần tiểu sử tổng hợp từ các sách ghi ở mục sách tham khảo.</ref>.
 
==Tác phẩm==