Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Mật tông”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
sửa lỗi chính tả
Dòng 1:
[[Hình:Mandala gross.jpg|nhỏ|200px|Mandala]]
'''Mật tôngTông''' (zh. 密宗 ''mì-zōng'') là từ gốc Hán dùng để gọi pháp môn bắt nguồn từ sự kết hợp giữa Ấn Độ giáo và Phật giáo [[Đại thừa]], được hình thành vào khoảng thế kỷ 5,6 tại [[Ấn Độ]]. Mật tôngTông lại chia thành hai phái: [[Chân ngôn thừa]] (Mantrayàna) và [[Kim cương thừa]] (Vajrayàna). Sự phát triển của Mật tôngTông gắn với các luận sư nổi tiếng như [[Subha Karasimha]] (''Thiên Vô Úy'', 637-735), [[Vajra Bodhi]] (''Kim Cương Trí'', 671-741), [[Amoghavajra]] (''Bất Không Kim Cương'', 705-774), [[Padmasambhava]] (''Liên Hoa Sinh'', cuối thế kỷ thứ VIII), [[Dipankarasrijanàna]] ([[Atisa]], cuối thế kỷ thứ XI). Padmasambhava và Dipankarasrijanàna là những người có công đưa Mật tôngTông vào Tây Tạng và trở thành tôn giáo chính ở đây.
 
== Nguồn gốc và sự truyền thừa ==
Tư tưởng Mật giáo có từ thời Phật giáo Nguyên thủy, thể hiện qua các câu thần chú trong các bộ luật và trong kinhKinh Khổng Tước. Nữa sau thế kỷ thứ 7 (AD), Ấn Độ giáo đã len lõi trong các hệ thống học thuyết, kể cả giáo lý Phật giáo mà phục hưng trở lại, từ đó tạo ra sự cạnh tranh mãnh liệt đối với Phật giáo đương thời. Lúc bấy giờ, Phật giáo Đại thừa chỉ giới hạn trong phạm vi “kinh viện triết học”, lý luận học vấn, các phạm trù triết học biện luận...,. doDo vậy, đã tự tách mình ra khỏi quảng đại quần chúng trong khi những hiện tượng siêu hình, thần bí có ở khắp nơi trên đất Ấn. Vì thế, để thích ứng với tình thế mới, Phật giáo Đại thừa nhanh chóng và tích cực tiếp cận với Ấn độ giáo và Bà-la-môn giáo. Ban đầu khi tiếp xúc, phía Phật giáo có những phản ứng khá kịch liệt, có lúc cật lực phê phán những quan niệm nghi chấp về tế tự cầu phướcphúc trừ họa và mật chú,. tuyTuy nhiên vẫn xúc tiến việc hợp lý hóa hoặc Phật giáo hóa theo tinh thần tùy duyên, cuối cùng Mật giáo đã hình thành nên một hệ thống tương đối độc lập trong Phật giáo Đại Thừa.
 
Theo Mật giáo,<ref>{{Chú thích web|url = http://bachkhoatoanthu.vass.gov.vn/noidung/tudien/Lists/GiaiNghia/View_Detail.aspx?TuKhoa=&ChuyenNganh=0&DiaLy=0&ItemID=18619|title = Mật giáo}}</ref> sự truyền thừa bắt đầu từ [[Đại Nhật Như Lai]] truyền cho Kim CangCương Bồ tát. Ông viết 2 quyển kinh Đại Nhật và Kim CangCương ĐảnhĐỉnh đem lưu lại trong một ngôi tháp. [[Long Thụ (600-650)|Long ThọThụ]] <ref>{{Chú thích web|url = http://bachkhoatoanthu.vass.gov.vn/noidung/tudien/Lists/GiaiNghia/View_Detail.aspx?ItemID=14835|title = Long Thọ Bồ tát}}</ref> mở tháp tiếp nhận 2 quyển kinh này và được Kim CangCương Bồ tát chỉ dạy. Sau đó, Long ThọThụ truyền cho Long Trí, một cao tăng tại viện Đại học Nalanda.
 
Ngài Long Trí sau khi thọthụ pháp với ngài Long ThọThụ, đã truyền pháp và giáo hóa các nước miền Nam Thiên Trúc và Tích Lan ([[Sri Lanka]]). Mật Giáogiáo sau đó đã sớm được phổ biến về hướng Bắc để sang Tây Tạng, Trung Hoa và Nhật Bản và về hướng Nam để qua mấy xứ Tích Lan, Miến Điện ([[Myanmar]]), Nam Dương, Cao([[Indonesia]]), Miên[[Campuchia]], Lào… hình thành hai nhánh Mật Giáo chính: Mật tông Nam Tông và Mật tông Bắc Tông.<ref>{{Chú thích web|url = http://vutruhuyenbi.com/forum/viewtopic.php?f=13&t=1240#p2527|title = Khái niệm về Mật Giáo- Sự Truyền Thừa: Mật Tông Phật giáo Tinh Hoa Yếu Lược (soạn giả Triệu Phước)}}</ref>
 
== Mật tông tại Trung Quốc ==
Dòng 18:
== Mật tông tại Tây Tạng ==
[[Hình:Brooklyn Museum - Vajrabhairava Yamantaka - Anonymous.jpg|nhỏ|200px|Vajrabhairava]]
Trước khi Mật giáo được truyền vào Tây Tạng, dân chúng nơi này chưa có một tôn giáo nào đậm nét. Lúc đó, vùng đất chỉ có đạo Bon là đạo giáo cổ truyền của dân bản xứ. Thời đó ,người ta chỉ biết thờ cúng chư thần kể cả hung thần, ác quỷ. Pháp môn Mật tông này truyền vào [[Tây Tạng]] muộn hơn Trung Quốc, vào khoảng cuối thế kỷ thứ 8, vua Tisongdetsen (740-786) có thỉnh rước 2 vị cao tăng Ấn Độ là Đại Sư [[Liên Hoa Sinh]] (Padma-Jungne) và Antarakshita. Tại đây Kim cương thừa đã hòa nhập với Phật giáo Đại thừa sẵn có của Tây Tạng và được gọi là [[Phật giáo Tây Tạng|Lạt Ma giáo]].
 
Tây Tạng có 4 tông phái Mật Tông chính là:
Dòng 24:
* Phái Kagyu ([[Ca-nhĩ-cư phái]])
* Phái Sakya ([[Tát-ca phái]])
* Phái Hoàng Mạo (Guelugpa, [[Cách-lỗ phái]]) do ngài Tsongkhapa, quê ở miền bắc Tây Tạng lập ra vào thế kỷ 14. Lúc đó ,Phật giáo bị mê mờ vì nhiều tín điều sai lầm và huyễn hoặc. Sư đã dùng tư tưởng cao sáng khuyên nhủ người tu hành nên tinh tấntiến tu, tham thiền hỏi đạo, trai giới đạo hạnh. Cuộc cải cách tôn giáo của ngài có hiệu quả vững bền. Về sau, phái của Sư đổi tên là Lạt-ma-giáo và trở thành người đứng đầu nhà nước Tây Tạng do Đức [[Đạt-lai Lạt-ma]] nắm giữ quyền cai trị dân chúng và trông nom mối đạo.
Ở Tây Tạng, đệ tử chỉ được thu nhận vào Mật tông thông qua một nghi lễ khai ngộ (''initiation'') đặc biệt được tiến hành bởi một [[lạt-ma]] có tên tuổi. Mật tông cũng chủ trương sự tự giác ngộ thông qua việc [[thiền|thiền định]] (''meditation'') và niệm [[chân ngôn]] (''mantra''). Dòng truyền thừa vào Tây Tạng xuất phát từ trung tâm Phật học [[Vikramasila]].
 
Dòng 32:
* Hoằng Pháp: Đại Sư [[Không Hải]] (zh. 空海, ja. ''kūkai''), sư đã đi sang Trung Quốc tầm sư học đạo và làm môn đệ của Đại sư [[Huệ Quả]], một môn đệ của Bất Không. Sau khi về nước và lập ra trường phái [[Chân Ngôn Tông|Chân ngôn tông]] (ja. ''shingon-shū'') rất hưng thịnh và là một trong những tông phái quan trọng của nền [[Phật giáo Nhật Bản]].
 
Các yếu tố quan trọng của Mật tông là phép niệm chân ngôn, phép bắt [[thủ ấn|ấn]] (sa. ''mudrā'') và sử dụng [[Mạn-đà-la|Mạn-đồ-la]] cũng như các lần [[Quán đỉnh]] (zh. 灌頂, sa. ''abhiṣeka''). Mật tông là giáo pháp mà sư phụ truyền cho học trò bằng lời (khẩu quyết) và đó là lý do mà Mật tông không được truyền bá rộng rãi. Thật ra, sau này do nhiều pháp sư lạm dụng sự huyền bí của chơnchân ngôn nên Mật tông dần co cụm lại và truyền thụ cho những người có duyên với pháp môn này.
 
==Mật tông tại Việt Nam ==
'''Trong nước:'''
 
Tại Việt Nam, có nhiều tác giả dịch thuật những bài kinh thuộc tạng kinh mật giáo như [[Thích Thiền Tâm]], [[Thích Viên Đức]], Thiền sư [[Nhẫn Tế]], Kim CangCương Thựơng Sư [[Thích Viên Thành]] dòng [[Drukpa]] - Bhutan viện chủ [[Chùa Hương]] - Hà Nội v.v., ngoàiNgoài ra còn có những vị tu theo mật pháp như [[Tịnh Danh Pháp Chủ]], Nhật Quang, [[Phương Nghi Huyền Thạch công]], [[Kim Cang Sư Thích Minh Đức|Kim Cương Sư Thích Minh Đức]], Thượng toạ [[Thích Minh Hiền]], Thượng toạ [[Thích Minh Trí]], Ni Sư [[Thích Viên Minh]], Ni Sư [[Thích Bảo Tâm]], Ni Sư [[Thích Thanh Tịnh]], Ni Sư [[Huệ Đức]] v.v.
 
Trong núi Cấm (An Giang) có dòng Mật Tông thuần Việt do Phật Thầy Tây An truyền dạy cho Tổ sư Tịnh Vân, còn gọi là Pháp Du Già hoặc Du Già Bồ Tát Đạo, là Pháp Mật vô thượng thừa. Tổ Tịnh Vân là sư huynh của Tổ Phi Lai dòng Hiển Tông Việt Nam. Tổ Tịnh Vân truyền thừa Mật Pháp cho Nhị Tổ Huyền Chi. Đến lượt mình, Nhị Tổ Huyền Chi truyền thừa lại giáo Pháp cho các đệ tử họ Hoàng, sau Hoàng là đến Thanh, sau Thanh thì đến Trí...cứ thế mà nối tiếp nhau mãi.