Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Vinh Sơn Phaolô Phạm Văn Dụ”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 72:
 
'''Vinh Sơn Phạm Văn Dụ''' (1922 - 1998) là một [[giám mục]] [[Công giáo Việt Nam]]. Ông nguyên là Giám mục chính tòa tiên khởi của Giáo phận Lạng Sơn và Cao Bằng.
 
Giám mục Phạm Văn Dụ sinh ra tại một gia đình Công giáo tại Ninh Bình. Các anh em ông đều có chí hướng tu tập. Sau nhiều năm tu học, ông được truyền chức linh mục năm 1948, là linh mục của Hạt Đại diện Tông Tòa Lạng Sơn và Cao Bằng. Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954, đa phần các giáo sĩ cũng như giáo dân rời bỏ địa phận vào miền Nam, linh mục Phạm Văn Dụ cùng 3 linh mục người Việt khác quyết định bám trụ ở lại.
 
Năm 1958, Giám mục Phó Đại diện Tông Tòa Lạng Sơn và Cao Bằng Jacq Mỹ rời Việt Nam sang Lào truyền giáo, giám mục Đại diện Tông Tòa Hedde Minh cũng qua đời sau đó vào tháng 5 năm 1960. Trong thời gian này, ông đảm nhiệm vai trò Tổng quản Địa phận, linh mục chính xứ Thất Khê. Tòa Thánh loan tin tuyển chọn linh mục Phạm Văn Dụ làm Giám mục Phụ tá Hạt Đại diện Tông Tòa Lạng Sơn và Cao Bằng vào tháng 3 năm 1960. Tuy nhiên, vì bị giới hạn về việc di chuyển, ông không được cử hành nghi thức truyền chức Giám mục. Kể từ tháng 5 năm 1960, sau khi giám mục Hedde Minh qua đời, Địa phận không còn giám mục do Đại diện Tông Tòa Jacq Mỹ thực tế không còn ở Việt Nam. Với việc thiết lập Hàng giáo phẩm Việt Nam, ông được chọn làm Giám mục chính tòa Tiên khởi Goáo phận Lạng Sơn và Cao Bằng.
 
Sau nhiều năm sống âm thầm với vị thế của một linh mục tại Giáo xứ Thất Khê, nhân việc di tản trong cuộc chiến tranh biên giới Việt-Trung năm 1979, ông cùng một số giáo dân đến Giáo phận Bắc Ninh. Tại đây, Giám mục giáo phận này là [[Phaolô Giuse Phạm Đình Tụng]] cử hành nghi thức truyền chức cho ông. Tuy đã được tấn phong, Nhà nước Việt Nam chưa công nhận chức giám mục của ông, mãi đến năm 1989, khi Hồng y Roger Etchegaray thương lượng với chính phủ và đạt được thỏa thuận.
 
Năm 1991, ông sang Rôma viếng thăm Giáo hoàng đồng thời chữa bệnh. Sau khi được công nhận chức Giám mục, ông tiến hành cải tổ giáo phận Lạng Sơn và Cao Bằng với nhiều khó khăn do nghèo cộng với sự tàn phá của chiến tranh. Sức khỏe ông yếu dần kể từ khi được công nhận chức giám mục.
 
Ngày 9 tháng 3 năm 1998, ông được Tòa Thánh chấp thuận đơn từ nhiệm vai trò Giám mục chính tòa Giáo phận Lạng Sơn và Cao Bằng. Ông qua đời sau đó vào ngày 2 tháng 9 năm 1998.
 
==Thân thế và tu tập==