Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Ngô Quang Trưởng”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 40:
Đầu tháng 5 năm 1972, ông được lệnh bàn giao Quân đoàn IV và Quân khu 4 lại cho Thiếu tướng [[Nguyễn Vĩnh Nghi]] (nguyên Tư lệnh Sư đoàn 21 Bộ binh) để đi nhận chức vụ Tư lệnh Quân đoàn I và Quân khu 1<ref>Khi tướng Trưởng nhậm chức vụ Tư lệnh Quân đoàn I, Bộ tư lệnh Quân đoàn gồm các sĩ quan chỉ huy và tham mưu cao cấp:<br>-Tư lệnh phó: Trung tướng [[Lâm Quang Thi]], kiêm Tư lệnh tiền phương Quân đoàn (SN 1932, Võ bị Đà Lạt K3)<br>-Tư lệnh phó lãnh thổ:-Thiếu tướng [[Hoàng Văn Lạc]] (SN 1927, Võ bị Huế K2)<br>-Tham mưu trưởng: Đại tá [[Hoàng Mạnh Đáng (Đại tá, Quân lực VNCH)|Hoàng Mạnh Đáng]] (Sinh năm 1930 tại Quảng Bình, tốt nghiệp trường Võ bị Địa phương Nam Việt Vũng Tàu)<br>-Chỉ huy Pháo binh: Đại tá [[Phạm Kim Chung (Đại tá, Quân lực VNCH)|Phạm Kim Chung]] (Sinh năm 1929 tại Kiến An, tốt nghiệp khóa 6 Võ bị Đà Lạt)<br>-Trưởng phòng 2: Đại tá [[Phạm Văn Phô (Đại tá, Quân lực VNCH)|Phạm Văn Phô]] (Sinh năm 1933 tại Cần Thơ, tốt nghiệp khóa 8 Võ bị Đà Lạt)<br>-Trưởng phòng 3: Đại tá [[Lê Bá Khiếu (Đại tá, Quân lực VNCH)|Lê Bá Khiếu]] (Sinh năm 1934 tại Thừa Thiên, tốt nghiệp khóa 4 phụ Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức tại Đà Lạt)<br>-Cùng thời điểm nói trên, xảy ra sự mâu thuẫn giữa tướng Trưởng và hai tướng Tư lệnh 2 đơn vị Tổng trừ bị: [[Lê Nguyên Khang]] (Tư lệnh Sư đoàn Thuỷ Quân Lục chiến), [[Dư Quốc Đống]] (Tư lệnh Sư đoàn Nhảy Dù), vì hai vị này đã là Trung tướng thực thụ và thuộc diện tướng đàn anh của tướng Trưởng trong khi tướng Trưởng chỉ là Trung tướng nhiệm chức. Do đó, khi bị đặt dưới quyền chỉ huy của tướng Trưởng, 2 vị tướng này tỏ vẻ bất mãn (Tướng Khang lên Chuẩn tướng và Thiếu tướng năm 1964, Trung tướng năm 1966. Tướng Đống lên Chuẩn tướng năm 1965, Thiếu tướng năm 1968 và Trung tướng năm 1970. Trong khi vào thời điểm năm 1964 tướng Trưởng mới là Thiếu tá và năm 1965 mới lên Trung tá). Để giải quyết mâu thuẫn này Tổng thống Thiệu liền ký quyết định phong Trung tướng thực thụ cho tướng Trưởng. Sau đó thuyên chuyển tướng Khang về Bộ Tổng Tham mưu giữ chức vụ Tổng thanh tra Quân lực, đồng thời bổ nhiệm Đại tá Bùi Thế Lân (Tư lệnh phó) làm Tư lệnh Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến. Trung tuần tháng 11 năm 1972, bổ nhiệm Đại tá Lê Quang Lưỡng Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 1 Nhảy Dù đang Xử lý Thường vụ chức vụ Tư lệnh Sư đoàn Nhảy Dù được chính thức làm Tư lệnh thay thế Trung tướng Đống.</ref> thay thế Trung tướng [[Hoàng Xuân Lãm]].<ref>Thực tế, tướng [[Hoàng Xuân Lãm]] bị cách chức Tư lệnh Quân đoàn I và Quân khu 1 vì đã để mất tỉnh Quảng Trị vào tay Quân Giải phóng miền Nam. Ông được điều về Trung ương làm Phụ tá cho Tổng trưởng Quốc phòng, chỉ là một chức vụ không quan trọng giống như "ngồi chơi xơi nước" vậy.</ref> Thời điểm này, Quân đoàn I được tăng cường toàn bộ Lực lượng Tổng trừ bị<ref>Lực lượng Tổng trừ bị gồm Sư đoàn Nhảy dù và Sư đoàn Thủy quân Lục chiến cùng các Liên đoàn Biệt Động quân là Lực lượng Tổng trừ bị của Quân khu.</ref> của Quân lực Việt Nam Cộng hòa và được yểm trợ từ xa bởi [[Đệ thất Hạm đội Hoa Kỳ|Hạm đội Đệ thất]] của Hoa Kỳ ở ngoài khơi biển Đông đã đẩy lui và tái chiếm Cổ thành Quảng Trị và các phần đất bị chiếm ở phía nam sông Thạch Hãn, gây nhiều thiệt hại nặng cho các đơn vị của đối phương.
 
==Năm 1975==
[[Hình: Air Vice Marshal Ky arrives on the USS Midway.jpg|nhỏ|trái|220px|Ngô Quang Trưởng và Nguyễn Cao Kỳ khi chạy ra tàu sân bay Mỹ vào ngày 29/4/1975]]
Tháng 3 năm 1975, khi quân đối phương mở chiến dịch đồng loạt tấn công miền Nam, với chức vụ Tư lệnh Quân đoàn I và Quân khu I, ông được lệnh phải giữ bằng được Huế. Trong tình hình này, ông tuyên bố: ''“Việt cộng phải bước qua xác tôi mới vào được cố đô Huế”''. Còn Tổng thống Thiệu thì tuyên bố trên đài Sài Gòn: ''“Bỏ Kon Tum, Pleiku để bảo toàn lực lượng, còn Đà Nẵng, Huế, Quân khu 3 sẽ phải giữ đến cùng”''<ref name=baophu />. Nhưng sau ít lâu, có lệnh di tản Bộ Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn I vào Đà Nẵng. Lại cộng thêm xích mích gay gắt giữa ông với Tổng thống Thiệu. Cùng lúc đó tin tức về việc bỏ Cao Nguyên cùng dòng người di tản hàng trăm ngàn người ùn ùn đổ vào Đà Nẵng khiến thành phố trở nên hoảng loạn và không thể kiểm soát được. Cộng với việc rút Sư đoàn Dù về Sài Gòn và tin đồn Tổng thống Thiệu muốn rút cả Sư đoàn Thủy quân Lục Chiến khiến tinh thần binh sĩ của tướng Trưởng đã xuống rất thấp, quan và lính tranh nhau lên máy bay, gây ra cảnh ẩu đả náo loạn. Sĩ quan, binh sĩ cùng với gia đình tháo chạy gây ra cảnh cướp bóc, bắn giết,… Hàng vạn lính mắc kẹt tại Đà Nẵng chạy ra bán đảo Sơn Trà hòng thoát về phía nam bằng đường biển, gây ra cảnh chen lấn giẫm đạp tranh nhau xuống tàu, binh lính đạp cả sĩ quan xuống biển. Cuộc di tản hoàn toàn thất bại, tổn thất toàn bộ lực lượng quân sự và cơ giới của Quân đoàn I trong thời gian rất ngắn. Thiệt hại đáng kể nhất là việc quân đội [[Việt Nam Cộng hòa|Việt Nam Cộng Hòa]] mất hoàn toàn quyền kiểm soát vùng lãnh thổ có 3 triệu dân, và việc tan rã 4 Sư đoàn quân chủ lực, trong đó có hai Sư đoàn thuộc hàng thiện chiến nhất của [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa]] là [[Sư đoàn 1 Bộ binh Quân lực Việt Nam Cộng hòa|Sư đoàn 1 Bộ Binh]] và [[Thủy quân lục chiến Việt Nam Cộng hòa|Sư đoàn Thủy quân Lục chiến]], đưa đến sụp đổ toàn bộ miền Nam một cách nhanh chóng bất ngờ. Trong vòng 32 giờ, hơn 100.000 quân ở Đà Nẵng dưới quyền của tướng Trưởng đã hoàn toàn tan rã và đầu hàng.
Dòng 46:
Tướng Ngô Quang Trưởng đã không giữ lời hứa ''“chết trong thành phố Huế”'', mà tìm cách bơi ra tàu chiến đang neo ngoài khơi Đà Nẵng để thoát khỏi vòng vây<ref name=baophu>http://www.baophuyen.com.vn/76/130239/chien-dich-hue-da-nang.html</ref>. Tướng Trưởng phải bơi ra tàu đang neo đậu ngoài khơi Đà Nẵng, do sóng to và tàu neo xa bờ khiến ông khi lên được tàu trong tình trạng sức khỏe rất kém, phải thở bằng máy, tàu cập bến Cam Ranh chở theo ông và hơn 4.000 Thủy Quân Lục Chiến. Hạm trưởng được lệnh chuyển ông sang tàu khác tốt hơn và bỏ lại 4.000 Thủy Quân Lục Chiến ở Cam Ranh, chở 1 mình ông vào Sài Gòn nhưng ông từ chối. Tàu cập bến cảng Vũng Tàu, sau đó ông được chuyển vào Tổng Y Viện Cộng Hòa chữa trị.
 
Vào nhữngNhững ngày cuối tháng 4 năm 1975, một sĩ quan lục quân Mỹ từng làm việc với Ngô Quang Trưởng đã đến gặp gia đình ông và đề nghị di tản khỏi Sài Gòn trước khi Quân giải phóng từ mọi hướng đổ về làm chủ thành phố. Vợ con Ngô Quang Trưởng theo sự hướng dẫn của viên sĩ quan người Mỹ xuống tàu thủy để ra đi. Riêng Ngô Quang Trưởng, phải đến ngày 30/4/1975, ông di tản bằng trực thăng của tướng [[Nguyễn Cao Kỳ]] ra tàu sân bay của Đệ Thất Hạm đội Hoa7, Kỳrồi đangtừ neođó đậuông ngoàita khơi.đến Sauđảo đó,Guam ôngđể đoàn cùngtụ gia đình. diTại tảnđây, sangvới Hoasự Kỳgiới thiệu của tướng Cushman ''(từng là cố vấn quân sự của Mỹ tại Vùng 4 chiến thuật)'', Trưởng và người con trai bắt đầu đi học nghề nông ở một nông trại cho đến lúc chuyển đến định cư tại Falls Church, Tiểu bang Virginia. Ông học- thêmmiền ngànhĐông điệnnước toánMỹ.
 
== Gia đình và những năm tháng lưu vong ==
Ngày 22 tháng 1 năm 2007 vào lúc 3 giờ 20 phút, ông đã từ trần tại nơi định cư. Hưởng thọ 78 tuổi. Theo ước nguyện của ông, tro cốt của ông được gia đình đem về Việt Nam.
Ông Ngô Quang Trưởng cưới bà Nguyễn Tường Nhung (con gái lớn của nhà văn [[Thạch Lam]]) và có 4 người con và sống với nhau cho đến ngày ông Trưởng trút hơi thở cuối cùng lúc 3h sáng ngày 22/1/2007, hưởng thọ 78 tuổi. Theo ước nguyện của ông, mùa hè năm 2008 tro cốt của ông được gia đình đem về Việt Nam.
 
==Các tác phẩm quân sự==