Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Bộ ba mã di truyền”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n stub sorting, replaced: London → Luân Đôn using AWB |
AlphamaEditor, sửa liên kết chưa định dạng, thêm thể loại, Executed time: 00:00:13.3942639 using AWB |
||
Dòng 1:
'''Bộ ba mã di truyền''' là tập hợp 3 nu-clê-ô-tit liền nhau trên phân tử a-xit nu-clê-ic mang thông tin về a-xit amin và tiến trình dịch mã.<ref name="S.J. Freeland">{{Chú thích sách|năm=2012|tác giả= S.J. Freeland |tiêu đề=“ The Triplet Genetic Code: Key to Living Organisms”|url= https://www.nature.com/articles/6800106}}</ref><ref>https://www.nature.com/scitable/definition/codon-155</ref>
===Khái niệm===
*Nguồn gốc thuật ngữ
Thuật ngữ «bộ ba mã di truyền» được dịch từ thuật ngữ tiếng Anh «triplet genetic code». Nội hàm của thuật ngữ này dùng để chỉ «mã di truyền (genetic code) gồm ba vật thể cùng loại (triplet) »; ngoại diện của thuật ngữ chỉ «3 vật thể cùng loại» ở đây là 3 nu-clê-ô-tit có chứa thông tin di truyền.<ref>{{chú thích web | url = https://www.thefreedictionary.com/triplet+code | tiêu đề = Triplet code | author = | ngày = | ngày truy cập = 16 tháng 9 năm 2018 | nơi xuất bản = | ngôn ngữ = }}</ref>
*Ví dụ về mã và dịch mã <ref name="Bùi Phúc Trạch">Bùi Phúc Trạch - “Tự luyện thi Sinh học 12” - NXB Thanh Hóa 2017, tập I.</ref>
Hai người nọ muốn viết thư bí mật, quy ước với nhau
- Đây là loại mật mã bằng số, mỗi đơn vị mã (codon) gồm 3 chữ số nên gọi là mã bộ ba (triplet).
Dòng 13:
*Các loại bộ ba mã di truyền
Trong quá trình học tập nâng cao môn Sinh học phân tử ở bậc phổ thông, nên phân biệt (dù không bắt buộc) các khái niệm
- '''Mã gốc''' là mã di truyền trên mạch gen được dùng làm khuôn để tổng hợp ra mARN.<ref>“Sinh học 12” - NXB Giáo dục, 2015, trang 8.</ref> Mạch này trong di truyền học phân tử gọi là mạch đối nghĩa (antisense strand),<ref name="medicinenet.com">https://www.medicinenet.com/script/main/art.asp?articlekey=20468</ref> nên còn có thể nói mã gốc là mã đối nghĩa.
Dòng 25:
[[Tập tin:Bộ ba mã DT 1.png|nhỏ]]
===Lược sử nghiên cứu===
Sau khi mô hình ADN được khám phá và công bố năm 1953,<ref>https://en.wikipedia.org/wiki/Molecular_models_of_DNA</ref> các nhà khoa học mà chủ yếu là Cơ-ric ([[Francis Crick]]) và Oat-sơn ([[James Dewey Watson]]) đã giả thuyết rằng
Giả thuyết này được tóm tắt bằng sơ đồ mà hiện nay, học sinh trung học nào cũng biết, nói lên vai trò trung tâm trong cơ chế di truyền là thuộc về ADN, mà không phải là prô-tê-in như trước đó khẳng định
ADN → ARN → Prô-tê-in → Tính trạng.
Sơ đồ này được xem là một trong những nền tảng của [[luận thuyết trung tâm]] (central dogma) nói trên.<ref>{{chú thích web | url = https://www.khanacademy.org/science/biology/gene-expression-central-dogma/central-dogma-transcription/a/the-genetic-code-discovery-and-properties | tiêu đề = The genetic code | author = | ngày = | ngày truy cập = 16 tháng 9 năm 2018 | nơi xuất bản = Khan Academy | ngôn ngữ = }}</ref> Từ sơ đồ, có thể mô tả là
Theo chính Cơ-ric, thì George Gamow là người đầu tiên giả định mỗi đơn vị mã di truyền (codon) là một bộ ba (triplet).<ref>{{chú thích web | url = https://en.wikipedia.org/wiki/Genetic_code | tiêu đề = Genetic code | author = | ngày = | ngày truy cập = 16 tháng 9 năm 2018 | nơi xuất bản = | ngôn ngữ = }}</ref> Sau đó, Marshall Nirenberg và Heinrich J. Matthaei là những người đầu tiên khám phá ra bản chất của một đơn vị mã (codon) vào năm 1961.<ref>{{chú thích web | url = https://en.wikipedia.org/wiki/J._Heinrich_Matthaei | tiêu đề = J. Heinrich Matthaei | author = | ngày = | ngày truy cập = 16 tháng 9 năm 2018 | nơi xuất bản = | ngôn ngữ = }}</ref><ref name="Phạm Thành Hổ">Phạm Thành Hổ - “Di truyền học” - NXB Giáo dục, 1998.</ref> Rồi đến năm 1964, bảng mã di truyền được công bố trên tạp chí Nature, trong đó 64 bộ ba của mARN được xác định nhờ M.W. Nirenberg cùng cộng sự và H.G. Khorana, được trao giải Nobel 1968.<ref>{{chú thích web | url = https://www.nobelprize.org/prizes/medicine/1968/summary/ | tiêu đề = The Nobel Prize in Physiology or Medicine 1968 | author = | ngày = | ngày truy cập = 16 tháng 9 năm 2018 | nơi xuất bản = NobelPrize.org | ngôn ngữ = }}</ref> Thành tựu này giúp ta hiểu rằng
Các khám phá tiếp theo về cấu trúc và chức năng của tARN ([[ARN vận chuyển]]) chủ yếu do công lao của Alex Rich và Don Caspar (ở Boston), của Jacques Fresco và cộng sự (ở Princeton) và một nhóm các nhà khoa học Anh ở King's College Luân Đôn. Năm 1965, Robert W. Holley thuộc Đại học Cornell đã công bố cấu tạo của tARN
Như vậy, theo sơ đồ của [[luận thuyết trung tâm]], ADN mang mã gốc sẽ được chuyển đổi thành mã phiên của [[ARN thông tin]], rồi mã phiên này được [[ARN vận chuyển]] có đối mã mà giải mã này thành a-xit a-min tương ứng trong quá trình [[dịch mã]], từ đó tính trạng hình thành.
==Tóm tắt==
* Trong Di truyền học hiện đại, mỗi '''đơn vị mã''' gọi là '''codon''' (phiên tiếng Việt
* Mỗi codon (đơn vị mã) di truyền gồm một '''triplet''' (phiên tiếng Việt
* Nếu bộ ba này ở ADN hoặc ở mạch mARN thì gọi là đơn vị mã (codon) hoặc là bộ ba (triplet), không phân biệt nhau. Nhưng nếu bộ ba này ở tARN giúp nó giải mã thì gọi là '''đối mã''' (anticodon, phiên âm tiếng Việt
==Tham khảo==
{{tham khảo|2}}
[[Thể loại:DNA]]
|